The vanishing glass-Chapter 2. Do you love the snake?

the vanishing glass

The vanishing glass – Tấm kính biến mất

Author: J.K.Rowling

Translator: Lý Lan

Audio: Sách Nói Việt Nam

Gần mười năm đã trôi qua kể từ ngày vợ chồng Dursley thức dậy phát hiện ra đứa cháu trai ở bậc cửa, nhưng con đường Privet Drive vẫn không hề thay đổi chút nào.

Nearly ten years had passed since the Dursleys had woken up to find their nephew on the front step, but Privet Drive had hardly changed at all.

 

Mặt trời vẫn mọc lên và tỏa soi con số 4 bằng đồng trên cửa nhà Dursley. Ánh nắng tràn vào căn phòng khách hầu như cũng y chang hồi trước, hồi ông Dursley ngồi xem bản tin thời sự định mệnh về những con cú. Chỉ có những tấm ảnh treo bên lò sưởi là đổi thay theo năm tháng.

The sun rose on the same tidy front gar- dens and lit up the brass number four on the Dursleys’ front door; it crept into their living room, which was almost exactly the same as it had been on the night when Mr. Dursley had seen that fateful news report about the owls. Only the photographs on the mantel- piece really showed how much time had passed.

 

Mười năm trước trên tường có vô số hình chụp một đứa bé trông giống như một trái banh hồng tròn quay trên bãi biển, đeo những cái nơ đủ màu. Nhưng nay thì Dudley không còn là một em bé mũm mĩm nữa, và những tấm ảnh giờ đây đang trưng ra một cậu bé tóc vàng đang cưỡi chiếc xe đạp đầu tiên của mình, đang cưỡi đu quay ở hội chợ, đang chơi trò chơi điện tử với cha mình, hoặc đang được mẹ ôm ấp hôn hít…

Ten years ago, there had been lots of pictures of what looked like a large pink beach ball wearing different-colored bonnets — but Dudley Durs- ley was no longer a baby, and now the photographs showed a large blond boy riding his first bicycle, on a carousel at the fair, playing a computer game with his father, being hugged and kissed by his mother.

 

Không có một dấu hiệu nào trong căn phòng cho thấy là còn một đứa bé khác cùng sống trong đó.

The room held no sign at all that another boy lived in the house, too.

 

Vậy mà Harry Potter lại đang có mặt ở đó, vừa thoáng chợp mắt, nhưng chẳng ngủ được bao lâu. Dì Petunia, tức bà Dursley, vừa thức dậy và cất lên âm thanh đầu tiên trong ngày bằng giọng the thé:

Yet Harry Potter was still there, asleep at the moment, but not for long. His Aunt Petunia was awake and it was her shrill voice that made the first noise of the day.

 

“Dậy! Dậy ngay!”

“Up! Get up! Now!”

 

Harry giật mình thức giấc. Dì nó lại đập cửa.

Harry woke with a start. His aunt rapped on the door again.

 

“Dậy!” Giọng bà rít lên. Harry nghe tiếng chân bà đi về phía nhà bếp và rồi tiếng xoong chảo được đặt lên lò. Nó nằm ngửa ra, nhớ lại giấc mơ đêm qua. Thật là một giấc mơ đẹp. Trong giấc mơ ấy, nó thấy một chiếc xe gắn máy biết bay. Nó có một cảm giác ngồ ngộ, rằng hình như trước đây nó từng mơ giấc mơ đó rồi.

“Up!” she screeched. Harry heard her walking toward the kitchen and then the sound of the frying pan being put on the stove. He rolled onto his back and tried to remember the dream he had been having. It had been a good one. There had been a flying motorcycle in it. He had a funny feeling he’d had the same dream before.

 

Dì nó lại đứng ngoài cửa gọi:

“Mày dậy chưa hả?”

His aunt was back outside the door. “Are you up yet?” she demanded.

“Sắp rồi ạ.”

“Nearly,” said Harry.

 

“Mau, ra đây tao cần mày trông chừng món thịt muối. Mày liệu hồn nếu để nó cháy. Tao muốn mọi thứ phải thật hoàn hảo vào ngày sinh nhật của Dudley.”

“Well, get a move on, I want you to look after the bacon. And don’t you dare let it burn, I want everything perfect on Duddy’s birthday.”

 

Harry ngáp. Dì nó xô cửa vô:

“Mày nói gì hả?”

Harry groaned.

“What did you say?” his aunt snapped through the door.

“Đâu có… đâu có nói gì đâu…”

“Nothing, nothing . . .”

 

Sinh nhật của Dudley. Làm sao mà nó có thể quên được? Harry thong thả ra khỏi giường, bắt đầu kiếm mấy chiếc vớ. Nó tìm được một đôi dưới gầm giường. Sau khi phủi bụi và mạng nhện, nó mang vớ vô.

Dudley’s birthday — how could he have forgotten? Harry got slowly out of bed and started looking for socks. He found a pair under his bed and, after pulling a spider off one of them, put them on.

 

Harry thân quen với mấy con nhện lắm, bởi vì cái phòng xép dưới gầm cầu thang có rất nhiều nhện, và đó chính là buồng ngủ của nó.

Harry was used to spiders, because the cupboard under the stairs was full of them, and that was where he slept.

 

Mặc quần áo xong Harry đi qua hành lang xuống bếp. Cái bàn đầy ắp quà sinh nhật của Dudley. Có vẻ như Dudley đã có được cái máy tính mới mà nó đòi, một cái ti vi nữa, và một chiếc xe đạp đua.

When he was dressed he went down the hall into the kitchen. The table was almost hidden beneath all Dudley’s birthday pres- ents. It looked as though Dudley had gotten the new computer he wanted, not to mention the second television and the racing bike.

 

Vì sao Dudley tự nhiên lại đòi một chiếc xe đạp đua thì quả là một bí mật đối với Harry, bởi vì Dudley mập ú và ghét thể thao hết chỗ nói, ngoại trừ môn thể thao ngắt véo người khác. Đối tượng ngắt véo mà Dudley khoái nhất chính là Harry, nhưng ít khi nào nó tóm được Harry. Trông Harry chẳng có vẻ nhanh nhẹn lắm, nhưng khi bị Dudley săn đuổi thì nó tẩu thoát nhanh lạ lùng.

Exactly why Dudley wanted a racing bike was a mystery to Harry, as Dudley was very fat and hated exercise — unless of course it in- volved punching somebody. Dudley’s favorite punching bag was Harry, but he couldn’t often catch him. Harry didn’t look it, but he was very fast.

 

Có lẽ do sống trong phòng xép tối tăm dưới gầm cầu thang mà Harry cứ ốm nhom nhỏ thó hơn tuổi thật của mình. Đã vậy trông nó còn ốm và nhỏ hơn thực tế nữa vì nó luôn phải mặc quần áo cũ của Dudley, mà Dudley thì lớn xác hơn nó gấp bốn lần.

Perhaps it had something to do with living in a dark cupboard, but Harry had always been small and skinny for his age. He looked even smaller and skinnier than he really was because all he had to wear were old clothes of Dudley’s, and Dudley was about four times bigger than he was.

 

Harry có một khuôn mặt gầy, tay chân loẻo khoẻo, tóc đen, mắt xanh biếc sáng long lanh. Nó đeo một cặp kiếng cận đầy băng keo vì bị gãy gọng sút cáng nhiều lần do Dudley khoái đấm vào giữa mũi Harry.

Harry had a thin face, knobbly knees, black hair, and bright green eyes. He wore round glasses held to- gether with a lot of Scotch tape because of all the times Dudley had punched him on the nose.

 

Cái duy nhất mà Harry hài lòng về người ngợm của mình là cái thẹo giữa trán có hình một tia chớp. Nó mang vết thẹo đó từ lâu lắm rồi, từ hồi nó không thể nhớ được nữa. Nó chỉ nhớ là lần đầu tiên nó hỏi dì Petunia làm sao nó có vết thẹo đó thì dì nói:

The only thing Harry liked about his own appearance was a very thin scar on his forehead that was shaped like a bolt of lightning. He had had it as long as he could re- member, and the first question he could ever remember asking his Aunt Petunia was how he had gotten it.

 

“Trong vụ xe đụng làm cho ba má mày chết. Không được hỏi nữa, nghe không?”

“In the car crash when your parents died,” she had said. “And don’t ask questions.”

 

Không được hỏi – đó là nguyên tắc thứ nhất để sống yên thân trong gia đình Dursley.

Don’t ask questions — that was the first rule for a quiet life with the Dursleys.

 

Dượng Vernon, tức ông Dursley, bước vào nhà bếp khi Harry đang lật mấy miếng thịt muối.

Uncle Vernon entered the kitchen as Harry was turning over the bacon.

 

Dượng nạt nó một câu như lời chào buổi sáng:

“Chải tóc, mày!”

“Comb your hair!” he barked, by way of a morning greeting.

 

Khoảng một tuần một lần, dượng Vernon lại ngước mắt ra khỏi tờ báo dượng đang đọc để quát Harry rằng cần phải cắt tóc. Hẳn là số lần cắt tóc của bọn con trai cả lớp cộng lại cũng không nhiều bằng của Harry, nhưng điều đó cũng chẳng làm cho cái đầu nó khác đi được mấy, tóc nó cứ tỉnh bơ mọc lên như cũ, khắp đầu.

About once a week, Uncle Vernon looked over the top of his newspaper and shouted that Harry needed a haircut. Harry must have had more haircuts than the rest of the boys in his class put together, but it made no difference, his hair simply grew that way — all over the place.

 

Khi Harry chiên tới trứng thì Dudley cùng má nó xuất hiện ở cửa nhà bếp. Cậu quý tử trông giống y chang cha nó: mặt to hồng hào, cổ cao không tới một ngấn, mắt nhỏ màu xanh lơ mọng nước, tóc vàng dày được chải mướt trên cái đầu lắm mỡ.

Harry was frying eggs by the time Dudley arrived in the kitchen with his mother. Dudley looked a lot like Uncle Vernon. He had a large pink face, not much neck, small, watery blue eyes, and thick blond hair that lay smoothly on his thick, fat head.

 

Dì Petunia thường nói Dudley trông giống như một em bé thiên thần, còn Harry thì thường nói Dudley trông giống như một con heo trong chuồng heo.

Aunt Petunia often said that Dudley looked like a baby angel — Harry often said that Dudley looked like a pig in a wig.

 

Harry đặt đĩa trứng muối và thịt muối lên bàn, cái bàn hầu như chẳng còn chỗ trống nào nữa vì chất đầy quà sinh nhật của Dudley. Nó đang đếm các món quà. Mặt nó xịu xuống, rồi nó nhìn ba má nó phụng phịu:

Harry put the plates of egg and bacon on the table, which was difficult as there wasn’t much room. Dudley, meanwhile, was counting his presents. His face fell.

 

“Có ba mươi sáu hà. Ít hơn năm ngoái hai món quà.”

“Thirty-six,” he said, looking up at his mother and father. “That’s two less than last year.”

 

“Cưng ơi, con đếm sót quà của cô Marge rồi kìa, nó nằm dưới gói quà to của ba má đó.”

“Darling, you haven’t counted Auntie Marge’s present, see, it’s here under this big one from Mommy and Daddy.”

 

Dudley đỏ mặt.

“Ừ, cũng chỉ mới có ba mươi bảy thôi.”

“All right, thirty-seven then,” said Dudley, going red in the face.

 

Từng chứng kiến nhiều lần cơn nhõng nhẽo của Dudley, Harry vội vàng ăn món thịt muối của mình càng nhanh càng tốt để phòng trường hợp Dudley hất tung cái bàn lên.

Harry, who could see a huge Dudley tantrum coming on, began wolfing down his bacon as fast as possible in case Dudley turned the table over.

 

Dì Petunia hiển nhiên là cảm nhận được nguy cơ đó, bởi vậy dì vội nói:

“Ba má sẽ mua thêm cho con hai món quà nữa khi đưa con đi chơi bữa nay. Được hôn cưng? Hai món quà nữa nha?”

Aunt Petunia obviously scented danger, too, because she said quickly, “And we’ll buy you another two presents while we’re out today. How’s that, popkin? Two more presents. Is that all right?”

 

Dudley suy nghĩ một lát. Trông nó suy nghĩ thật là vất vả. Cuối cùng nó nói chậm rãi:

“Vậy, vậy là con sẽ có ba mươi… ba mươi…”

Dudley thought for a moment. It looked like hard work. Finally he said slowly, “So I’ll have thirty . . . thirty . . .”

 

“Ba mươi chín, cục cưng của má à.”

“Thirty-nine, sweetums,” said Aunt Petunia.

 

Dudley nặng nề ngồi xuống và chụp lấy món quà gần nhất:

“Ừ, được rồi đó.”

“Oh.” Dudley sat down heavily and grabbed the nearest parcel. “All right then.”

 

 

Dượng Vernon chắt lưỡi, đưa tay xoa đầu con trai:

“Còn nhỏ mà biết tính kỹ hén. Thiệt xứng đáng là con của cha, cậu Dudley ạ.”

Uncle Vernon chuckled.

“Little tyke wants his money’s worth, just like his father. ’Atta boy, Dudley!” He ruffled Dudley’s hair.

 

Lúc đó điện thoại reo, dì Petunia đi nghe điện thoại, Harry và dượng Vernon ngồi nhìn Dudley mở quà: xe đạp đua, máy quay phim, máy bay điều khiển từ xa, mười sáu trò chơi điện tử mới, và một đầu máy video. Nó đang lột giấy bao khỏi một cái đồng hồ đeo tay bằng vàng thì dì Petunia trở lại bàn ăn, vẻ mặt giận dữ và lo lắng:

At that moment the telephone rang and Aunt Petunia went to answer it while Harry and Uncle Vernon watched Dudley unwrap the racing bike, a video camera, a remote control airplane, sixteen new computer games, and a VCR. He was ripping the paper off a gold wristwatch when Aunt Petunia came back from the telephone looking both angry and worried.

 

“Xui quá anh Vernon à. Bà Figg bị gãy giò, bà không nhận giữ nó.”

“Bad news, Vernon,” she said. “Mrs. Figg’s broken her leg. She can’t take him.”

 

Dì hất đầu về phía Harry. Miệng Dudley há hốc kinh hoàng, nhưng tim Harry nhảy cẫng lên. Hằng năm vào dịp sinh nhật của Dudley, ba má nó dắt nó và bạn nó đi chơi cả ngày, nào là tới khu vui chơi giải trí, vô nhà hàng hay đi coi hát.

She jerked her head in Harry’s direction. Dudley’s mouth fell open in horror, but Harry’s heart gave a leap. Every year on Dudley’s birthday, his parents took him and a friend out for the day, to adventure parks, hamburger restaurants, or the movies.

 

Vào dịp đó hàng năm, Harry bị gởi ở nhà bà Figg. Harry ghét lắm, vì bà Figg là một mụ già điên khó tính sống cách đó hai dãy phố. Ở nhà bà toàn là mùi bắp cải, và bà Figg cứ bắt Harry xem hình mấy con mèo của bà nuôi.

Every year, Harry was left behind with Mrs. Figg, a mad old lady who lived two streets away. Harry hated it there. The whole house smelled of cabbage and Mrs. Figg made him look at photographs of all the cats she’d ever owned.

 

“Bây giờ làm sao đây?”

Dì Petunia vừa nói vừa nhìn Harry tức tối như thể nó âm mưu bày đặt vụ này. Harry biết là mình nên tội nghiệp cho bà Figg bị gãy chân, nhưng khi nghĩ đến chuyện khỏi gặp lại mấy con mèo của bà thì nó không dễ gì kiềm nén được niềm vui khấp khởi.

“Now what?” said Aunt Petunia, looking furiously at Harry as though he’d planned this. Harry knew he ought to feel sorry that Mrs. Figg had broken her leg, but it wasn’t easy when he reminded himself it would be a whole year before he had to look at Tibbies, Snowy, Mr. Paws, and Tufty again.

 

Dượng Vernon đề nghị:

“Chúng ta có thể gọi điện nhờ cô Marge.”

“Anh đừng điên. Cổ chúa ghét thằng bé.”

“We could phone Marge,” Uncle Vernon suggested.

“Don’t be silly, Vernon, she hates the boy.”

 

Mặc dù Harry vẫn ngồi trước mặt họ nhưng gia đình Dursley cứ nói về nó như nó không hề hiện diện, hoặc như thể nó là một cái thứ gì không thể nghe hiểu được họ, một thứ ốc sên chẳng hạn.

The Dursleys often spoke about Harry like this, as though he wasn’t there — or rather, as though he was something very nasty that couldn’t understand them, like a slug.

 

“Thế còn cô bạn của em, cô… Yvonne gì đó?”

“What about what’s-her-name, your friend — Yvonne?”

“Đi nghỉ ở Majorca rồi.”

“On vacation in Majorca,” snapped Aunt Petunia.

 

Harry nhen nhóm chút hy vọng:

“Hay dì dượng cứ để mặc con ở nhà…”

(Như vậy nó có thể xem chương trình truyền hình nó thích để thay đổi khẩu vị, và biết đâu nó có thể vọc cái máy tính của Dudley.)

“You could just leave me here,” Harry put in hopefully (he’d be able to watch what he wanted on television for a change and maybe even have a go on Dudley’s computer).

 

Nhưng dì Petunia trợn mắt nhìn nó, như thể dì vừa nuốt một trái chanh và mắc nghẹn:

“Để cho cái nhà này bị mày phá tanh bành hả?”

Aunt Petunia looked as though she’d just swallowed a lemon. “And come back and find the house in ruins?” she snarled.

 

“Con không làm nổ cái nhà đâu.”

Harry nói, nhưng chẳng ai thèm nghe.

“I won’t blow up the house,” said Harry, but they weren’t listen- ing.

 

Dì Petunia chậm rãi nói:

“Hay là cứ dắt nó đi sở thú với mình nhưng để nó ngồi trong xe?”

“I suppose we could take him to the zoo,” said Aunt Petunia slowly, “. . . and leave him in the car. ”

 

Dượng Vernon phản đối ngay:

“Cái xe mới toanh, ai dám để nó ngồi một mình trong đó!”

“That cars new, he’s not sitting in it alone. ”

 

Dudley bắt đầu khóc thật to. Thật ra thì nó giả bộ khóc thôi (lần nó khóc thật gần nhất cách đây cũng mấy năm rồi), nhưng nó biết rằng nếu nó nhăn mặt mếu máo thì mẹ nó sẽ cho nó bất cứ cái gì nó muốn.

Dudley began to cry loudly. In fact, he wasn’t really crying — it had been years since he’d really cried — but he knew that if he screwed up his face and wailed, his mother would give him any- thing he wanted.

 

Bà vòng tay ôm nó vỗ về:

“Đừng khóc, Dudley cục cưng của má. Má không để cho nó làm hỏng ngày vui của con đâu.”

“Dinky Duddydums, don’t cry, Mummy won’t let him spoil your special day!” she cried, flinging her arms around him.

 

Dudley giả đò thổn thức và gào lên:

“Con… không… cho… nó… đi… chung.”

“I . . . don’t . . . want . . . him . . . t-t-to come!” Dudley yelled between huge, pretend sobs. “He always sp-spoils everything!”

 

Qua khoảng trống giữa hai cánh tay của mẹ, Dudley nhe răng cười nhạo Harry.

He shot Harry a nasty grin through the gap in his mothers arms.

 

Bỗng lúc đó chuông cửa reo. Dì Petunia kêu lên:

“Ối, trời ơi, khách khứa đến rồi đó.”

Chỉ một lát sau, thằng bạn thân của Dudley là Piers Polkiss bước vào cùng với mẹ nó.

Just then, the doorbell rang — “Oh, good Lord, they’re here!” said Aunt Petunia frantically — and a moment later, Dudley’s best friend, Piers Polkiss, walked in with his mother.

 

Piers là một thằng nhỏ khẳng khiu với khuôn mặt y như chuột. Nó thường là đứa giữ chặt tay Harry cho Dudley đấm. Dudley ngừng trò khóc giả đò ngay.

Piers was a scrawny boy with a face like a rat. He was usually the one who held people’s arms behind their backs while Dudley hit them. Dudley stopped pretending to cry at once.

 

Nửa giờ sau, Harry không thể tin được vận may lại đến với mình như thế: nó đang được ngồi trên xe hơi chung với gia đình Dursley trên đường đến sở thú lần đầu tiên trong đời. Dì và dượng Dursley đã không thể nghĩ ra cách nào khác để giải quyết nó, nhưng trước khi đi, dượng Vernon kéo nó ra, cúi sát cái mặt hồng hào to tướng của ông vào mặt nó mà dặn dò:

Half an hour later, Harry, who couldn’t believe his luck, was sit- ting in the back of the Dursleys’ car with Piers and Dudley, on the way to the zoo for the first time in his life. His aunt and uncle hadn’t been able to think of anything else to do with him, but be- fore they’d left, Uncle Vernon had taken Harry aside.

 

“Tao báo cho mày biết trước: Mày mà giở bất cứ trò quỷ quái nào ra, bất cứ trò gì, mày cũng sẽ bị nhốt vào trong hốc tủ từ đây cho đến Noel, nhớ chưa?”

“I’m warning you,” he had said, putting his large purple face right up close to Harry’s, “I’m warning you now, boy — any funny business, anything at all — and you’ll be in that cupboard from now until Christmas.”

 

Harry hứa:

“Con sẽ không làm điều gì cả thiệt mà…”

I’m not going to do anything,” said Harry, “honestly . . .”

 

Nhưng dượng Vernon không tin. Từ hồi nào tới giờ chưa từng có ai tin Harry cả.

But Uncle Vernon didn’t believe him. No one ever did.

Đó là bởi vì luôn luôn có những chuyện lạ lùng xảy ra quanh nó, và hoàn toàn vô ích để làm cho ông bà Dursley tin rằng những chuyện này không phải do Harry bày ra.

The problem was, strange things often happened around Harry and it was just no good telling the Dursleys he didn’t make them happen.

 

Thí dụ một lần, dì Petunia lấy cái kéo nhà bếp cắt trụi lủi mớ tóc trên đầu Harry, khiến cho cái đầu nó trọc lóc. Dì chỉ để chừa lại một chỏm trên trán, theo dì nói là ‘để che cái thẹo kinh khủng kia đi’. Chẳng là dì đã cáu tiết khi thấy Harry đi tiệm hớt tóc về mà đầu vẫn cứ bờm xờm như không hề được cắt tỉa.

Once, Aunt Petunia, tired of Harry coming back from the bar- bers looking as though he hadn’t been at all, had taken a pair of kitchen scissors and cut his hair so short he was almost bald except for his bangs, which she left “to hide that horrible scar.”

 

Hôm đó Dudley được một bữa cười đến phát nấc cục còn Harry thì thao thức suốt đêm, đau khổ tưởng tượng đến ngày hôm sau phải vào trường. Ở trường với mớ áo quần rộng lùng thùng của Dudley mà nó phải mặc và chiếc kính dán đầy băng keo, nó vốn đã là trò tiêu khiển cho những đứa khác.

Dudley had laughed himself silly at Harry, who spent a sleepless night imagining school the next day, where he was already laughed at for his baggy clothes and taped glasses.

 

Vậy mà sáng hôm sau khi tức dậy Harry thấy tóc nó vẫn y như trước khi dì Petunia cạo láng.

Next morning, however, he had gotten up to find his hair exactly as it had been before Aunt Petu- nia had sheared it off.

 

Vì tội này Harry đã bị nhốt vô gầm cầu thang một tuần mặc dù nó cố gắng phân bua rằng nó không thể giải thích được làm sao mà tóc nó lại mọc lên nhanh như vậy.

He had been given a week in his cupboard for this, even though he had tried to explain that he couldn’t explain how it had grown back so quickly.

 

Rồi một lần khác, dì Petunia bắt Harry mặc chiếc áo len của Dudley đã bỏ đi. Cái áo đó màu nâu với những túm len màu cam trông hết sức khủng khiếp. Harry không thích chút nào, nhưng dì Petunia cứ tròng áo vô đầu nó. Dì càng ra sức co kéo thì chiếc áo càng nhỏ lại, cuối cùng thì cái áo chỉ vừa đủ lớn để mặc cho một con búp bê bằng nắm tay, và dĩ nhiên là không vừa với Harry. Dì Petunia thì cho là tại vì giặt mà cái áo bị co rút, nhờ vậy lần đó Harry không bị phạt.

Another time, Aunt Petunia had been trying to force him into a revolting old sweater of Dudley’s (brown with orange puff balls). The harder she tried to pull it over his head, the smaller it seemed to become, until finally it might have fitted a hand puppet, but certainly wouldn’t fit Harry. Aunt Petunia had decided it must have shrunk in the wash and, to his great relief, Harry wasn’t punished.

 

Nhưng đổi lại nó bị rắc rối to khi một lần người ta thấy nó đang ngồi chong chóc trên mái nhà bếp của trường.

On the other hand, he’d gotten into terrible trouble for being found on the roof of the school kitchens.

 

Hôm đó, băng của Dudley đang rượt bắt Harry như mọi khi, khi Harry chạy hết nổi và cầm chắc rơi vào tay lũ trẻ, thì nó ngạc nhiên thấy thoát một cái, mình đang ở trên mái nhà. Bọn trẻ cũng kinh ngạc hết sức.

Dudley’s gang had been chasing him as usual when, as much to Harry’s surprise as anyone else’s, there he was sitting on the chimney. The Dursleys had re- ceived a very angry letter from Harry’s headmistress telling them Harry had been climbing school buildings.

 

Còn ông bà Dursley thì nhận được thư mắng vốn của cô hiệu trưởng vì Harry đã trèo lên nóc nhà ngồi chơi. Harry cố gắng giải thích với dượng Vernon, bằng cách gào thật to qua lỗ khóa của cái phòng xép dưới gầm cầu thang, rằng lúc đó nó chỉ định nhảy qua cái thùng rác lớn ở nhà bếp. Nó đoán là khi thực hiện cú nhảy lửng lơ đó, gió đã thổi nó lên nóc nhà!

But all he’d tried to do (as he shouted at Uncle Vernon through the locked door of his cup- board) was jump behind the big trash cans outside the kitchen doors. Harry supposed that the wind must have caught him in mid-jump.

 

Nhưng hôm nay thì đừng có chuyện quái dị gì xảy ra nhé. Hôm nay đáng được giữ gìn để còn đi chơi với Dudley và Piers ở một nơi khác – không phải là trường học, không phải là gầm cầu thang, hay căn nhà toàn mùi bắp cải của bà Figg.

But today, nothing was going to go wrong. It was even worth be- ing with Dudley and Piers to be spending the day somewhere that wasn’t school, his cupboard, or Mrs. Figg’s cabbage-smelling living room.

 

Vừa lái xe, dượng Vernon vừa phàn nàn với dì Petunia. Ông thích phàn nàn về mọi thứ: mấy người ở sở làm, hội đồng thành phố, Harry, ngân hàng, và Harry chính là một trong vài đề tài ông thích phàn nàn nhất. Còn sáng nay, đề tài phàn nàn của ông là về xe gắn máy.

While he drove, Uncle Vernon complained to Aunt Petunia. He liked to complain about things: people at work, Harry, the council, Harry, the bank, and Harry were just a few of his favorite subjects. This morning, it was motorcycles.

 

“… gào rú như đồ điên, cái đồ mất dạy!”, ông nói khi một chiếc xe gắn máy vượt qua mặt họ.

“. . . roaring along like maniacs, the young hoodlums,” he said, as a motorcycle overtook them.

Harry chợt nhớ giấc mơ của mình và buột miệng nói:

“Con có mơ thấy một chiếc xe gắn máy. Nó bay.”

“I had a dream about a motorcycle,” said Harry, remembering suddenly. “It was flying.”

Dượng Vernon suýt nữa tông vào chiếc xe chạy phía trước. Ông xoay ngoắt mình trên ghế để quát vào mặt Harry, bộ mặt ông lúc đó trông giống như một củ cải đỏ khổng lồ:

“XE GẮN MÁY KHÔNG BAY!”

Uncle Vernon nearly crashed into the car in front. He turned right around in his seat and yelled at Harry, his face like a gigantic beet with a mustache: “MOTORCYCLES DON’T FLY!”

 

Dudley và Piers bấm nhau cười hi hí.

Dudley and Piers sniggered.

 

Harry nói:

“Con biết là nó không bay. Chỉ là chiêm bao mà.”

“I know they don’t,” said Harry. “It was only a dream.”

 

Nhưng giá mà nó đừng nói thì hơn. Ở trong gia đình Dursley, mỗi khi nó đặt câu hỏi thì người ta đã thấy ghét nó rồi; nhưng không ghét bằng khi nó nói về những việc không bình thường, cho dù nó nói đó là chuyện chiêm bao hay phim hoạt hình đi nữa. Có vẻ như họ sợ Harry sẽ bị nhiễm những ý tưởng kỳ quái nguy hiểm.

But he wished he hadn’t said anything. If there was one thing the Dursleys hated even more than his asking questions, it was his talk- ing about anything acting in a way it shouldn’t, no matter if it was in a dream or even a cartoon — they seemed to think he might get dangerous ideas.

 

Hôm ấy là một ngày thứ bảy nắng đẹp và sở thú đầy nhóc những gia đình dắt con cái đi chơi. Ông bà Dursley mua cho Dudley và Piers mỗi đứa một cây kem sôcôla to tổ chảng ngay ở cổng, và bởi vì trước khi họ kịp vội vàng kéo Harry đi chỗ khác thì cô bán hàng đã tươi cười hỏi Harry rằng cậu bé muốn ăn kem gì, họ mới đành mua cho nó một cây kem chanh rẻ tiền. Cũng không đến nỗi tệ. Harry vừa nghĩ vừa mút cây kem của mình khi cả bọn đứng xem một con đười ươi gãi đầu. Harry thấy con đười ươi đó giống Dudley lắm dù rằng lông nó không có màu vàng hoe.

It was a very sunny Saturday and the zoo was crowded with fam- ilies. The Dursleys bought Dudley and Piers large chocolate ice creams at the entrance and then, because the smiling lady in the van had asked Harry what he wanted before they could hurry him away, they bought him a cheap lemon ice pop. It wasn’t bad, either, Harry thought, licking it as they watched a gorilla scratching its head who looked remarkably like Dudley, except that it wasn’t blond.

 

Lâu lắm rồi Harry mới có được một buổi sáng đẹp như vậy. Nó cẩn thận đi cách ông bà Dursley một khoảng để Dudley và Piers không kiếm chuyện nện nó cho đỡ ngứa chân tay. Hai thằng nhỏ đã có vẻ bắt đầu chán mấy con thú.

Harry had the best morning he’d had in a long time. He was careful to walk a little way apart from the Dursleys so that Dudley and Piers, who were starting to get bored with the animals by lunchtime, wouldn’t fall back on their favorite hobby of hitting him.

Khi họ ngồi ăn trong nhà hàng của sở thú, Dudley đập bàn đập ghế um xùm vì cái bánh kem của nó không có đủ kem như nó đòi, dượng Vernon bèn mua cho nó một cái khác, và Harry được hưởng cái bánh kem không đủ kem đó.

They ate in the zoo restaurant, and when Dudley had a tantrum because his knickerbocker glory didn’t have enough ice cream on top, Uncle Vernon bought him another one and Harry was allowed to finish the first.

 

Mãi về sau, Harry vẫn còn cảm thấy sao mà chuyện đó đẹp như một giấc mơ.

Harry felt, afterward, that he should have known it was all too good to last.

 

Sau bữa ăn trưa, họ đến khu chuồng nuôi các loài bò sát. Bên trong mát lạnh và tăm tối, chỉ có ánh sáng dọc qua cửa sổ theo tường. Đằng sau tấm kính ngăn, đủ loại rắn rít trườn quanh những tảng đá hay khúc gỗ.

After lunch they went to the reptile house. It was cool and dark in there, with lit windows all along the walls. Behind the glass, all sorts of lizards and snakes were crawling and slithering over bits of wood and stone.

Dudley và Piers muốn xem mấy con rắn hổ mang khổng lồ rất độc, và lũ trăn (cũng khổng lồ) có thể quấn chết người. Dudley nhanh chóng kiếm ra chỗ ở của con rắn lớn nhất sở thú. Nó bự đến nỗi có thể quấn hai vòng quanh chiếc xe hơi của ông Dursley và siết cho chiếc xe bẹp dúm bẹp dí như cái thùng rác cũ. Nhưng lúc đó con rắn không tỏ vẻ hứng thú làm chuyện đó. Nó đang ngủ.

Dudley and Piers wanted to see huge, poisonous cobras and thick, man-crushing pythons. Dudley quickly found the largest snake in the place. It could have wrapped its body twice around Uncle Vernon’s car and crushed it into a trash can — but at the moment it didn’t look in the mood. In fact, it was fast asleep.

 

Dudley dí mũi sát cửa kính nhìn chằm chằm vào cái cuộn màu nâu bóng láng ấy.

Dudley stood with his nose pressed against the glass, staring at the glistening brown coils.

 

Nó nài nỉ ba nó:

“Làm cho nó nhúc nhích đi.”

“Make it move,” he whined at his father.

 

Ông Dursley vỗ lên tấm kính ngăn, nhưng con vật lì lợm nằm yên. Dudley lại òn ỉ:

“Làm nữa đi ba.”

Uncle Vernon tapped on the glass, but the snake didn’t budge.

“Do it again,” Dudley ordered.

 

Ông Dursley lại vỗ bàn tay hộ pháp của mình lên tấm kính, nhưng con rắn cứ giả điếc hay là điếc thật.

Uncle Vernon rapped the glass smartly with his knuckles, but the snake just snoozed on.

 

Dudley làu bàu bỏ đi:

“Con này chán ngắt.”

“This is boring,” Dudley moaned. He shuffled away.

 

Harry đi tới đứng vào chỗ Dudley đã bỏ đi, chăm chú nhìn con rắn. Nếu mà con rắn đã chết vì chán ngán thì Harry cũng không lấy làm ngạc nhiên. Nghĩ coi, chẳng có ai bầu bạn ngoại trừ mấy thằng ngốc gõ gõ ngón tay lên tấm kính ngăn để quấy rầy nó suốt ngày.

Harry moved in front of the tank and looked intently at the snake. He wouldn’t have been surprised if it had died of boredom itself — no company except stupid people drumming their fingers on the glass trying to disturb it all day long.

 

Còn tệ hơn là ở trong cái phòng xép dưới gầm cầu thang, nơi chỉ có dì Petunia tới đập cửa kêu dậy, ít nhất ở đó còn được đi qua nhà bếp hay loanh quanh trong vườn.

It was worse than hav- ing a cupboard as a bedroom, where the only visitor was Aunt Petu- nia hammering on the door to wake you up; at least he got to visit the rest of the house.

harry potter và hòn đá phù thủy

Thình lình con rắn mở mắt ra, hai con mắt như hai hòn bi thủy tinh. Rồi rất từ tốn, nó ngóc đầu lên cho đến khi mắt nó ngang tầm với mắt Harry.

The snake suddenly opened its beady eyes. Slowly, very slowly, it raised its head until its eyes were on a level with Harry’s.

 

Nó nháy mắt. It winked.

 

Harry nhìn con rắn chằm chằm. Rồi nó liếc nhanh chung quanh xem có ai đang ngó chừng không. Không có, Harry bèn nhìn con rắn và nháy mắt với nó.

Harry stared. Then he looked quickly around to see if anyone was watching. They weren’t. He looked back at the snake and winked, too.

 

Con rắn hất đầu về phía Dudley và ông Dursley, nhướn mắt nhìn lên trần nhà rồi ném cho Harry một cái nhìn mang ý nghĩa rõ ràng là:

“Ta quá nhàm vụ đó rồi.”

The snake jerked its head toward Uncle Vernon and Dudley, then raised its eyes to the ceiling. It gave Harry a look that said quite plainly:

“I get that all the time.”

 

Harry thì thầm qua những tấm kính mặc dù không chắc con rắn có thể nghe được:

“Tao biết. Chắc là khó chịu lắm.”

“I know,” Harry murmured through the glass, though he wasn’t sure the snake could hear him. “It must be really annoying.”

 

Con rắn gật mạnh cái đầu.

The snake nodded vigorously.

 

Harry hỏi:

“Nhân tiện xin hỏi, mày ở đâu ra vậy?”

“Where do you come from, anyway?” Harry asked.

 

Con rắn ngoắc cái đuôi chỉ vào tấm bảng cạnh tấm kính. Harry đọc:

The snake jabbed its tail at a little sign next to the glass. Harry peered at it.

 

Boa Constrictor, Brazin.

Boa Constrictor, Brazil.

“Xứ đó đẹp không?”

“Was it nice there?”

 

Con rắn lại ngoắc đuôi chỉ tấm bảng lần nữa và Harry đọc tiếp:

 “Con vật này sinh trưởng trong sở thú.”

The boa constrictor jabbed its tail at the sign again and Harry read on: This specimen was bred in the zoo.

 

“À, tao hiểu rồi. Vậy là mày chưa từng tới Brazin?”

“Oh, I see — so you’ve never been to Brazil?”

 

Con rắn lắc đầu, vừa lúc một tiếng thét kinh hoàng vang lên phía sau Harry làm cho cả nó và con rắn đều giật bắn mình.

As the snake shook its head, a deafening shout behind Harry made both of them jump.

 

“DUDLEY! ÔNG DURSLEY! LẠI ĐÂY COI CON RẮN NÀY! KHÔNG THỂ NÀO TIN ĐƯỢC CHUYỆN NÓ ĐANG LÀM ĐÂU!”

“DUDLEY! MR. DURSLEY! COME AND LOOK AT THIS SNAKE! YOU WON’T BELIEVE WHAT IT’S DOING!”

 

Dudley chạy nháo nhào tới. Nó đấm vô sườn của Harry.

“Mày tránh ra tao coi.”

Bị bất ngờ, Harry té lăn xuống sàn bê tông.

Dudley came waddling toward them as fast as he could.

“Out of the way, you,” he said, punching Harry in the ribs. Caught by surprise, Harry fell hard on the concrete floor.

 

Điều xảy ra tiếp theo nhanh đến nỗi không ai kịp nhìn thấy là nó đã xảy ra như thế nào: Tích tắc thứ nhất, Dudley và Piers dí mắt lên tấm kính, tích tắc thứ hai, tụi nó bật ngửa ra sau với tiếng rú hãi hùng.

What came next happened so fast no one saw how it happened — one second, Piers and Dudley were leaning right up close to the glass, the next, they had leapt back with howls of horror.

 

Harry lồm cồm ngồi dậy sửng sốt. Tấm kính ngăn chuồng con Boa Constrictor đã biến mất.

Harry sat up and gasped; the glass front of the boa constrictor’s tank had vanished.

 

Con rắn khổng lồ đang lẹ làng trườn trên sàn. Mọi người trong khu chuồng bò sát vừa la hét vừa chạy thoát thân ra cửa.

The great snake was uncoiling itself rapidly, slithering out onto the floor. People throughout the reptile house screamed and started running for the exits.

 

Khi con rắn trườn ngang qua, Harry nghe như có một giọng trầm trầm xúc động vang lên:

 “Ta về Brazin đây… cám ơn lắm lắm, bạn ta.”

As the snake slid swiftly past him, Harry could have sworn a low, hissing voice said, “Brazil, here I come. Thanksss, amigo.”

 

Người trông coi chuồng bò sát chết điếng đi, cứ lắp bắp mãi:

“Nhưng… tấm kính ngăn… tấm kính ngăn đâu rồi?”

The keeper of the reptile house was in shock. “But the glass,” he kept saying, “where did the glass go?”

 

Ông giám đốc sở thú đích thân pha một tách trà đậm có đường cho bà Dursley, rối rít xin lỗi không thôi. Dudley và Piers gần như á khẩu.

The zoo director himself made Aunt Petunia a cup of strong, sweet tea while he apologized over and over again. Piers and Dud- ley could only gibber.

 

Theo như Harry chứng kiến thì con rắn không làm gì ai ngoài chuyện táp đùa không khí lúc trườn ngang qua chân bọn chúng. Nhưng một khi đã an toàn ngồi trên xe của ông Dursley thì Dudley bắt đầu ba hoa chuyện con rắn suýt nữa đã táp trúng giò cẳng của nó, còn Piers thì làm như thể con rắn chỉ thiếu chút nữa là đã siết nó trẹo cả xương sống.

As far as Harry had seen, the snake hadn’t done anything except snap playfully at their heels as it passed, but by the time they were all back in Uncle Vernon’s car, Dudley was telling them how it had nearly bitten off his leg, while Piers was swearing it had tried to squeeze him to death.

 

Nhưng điều kinh khủng nhất đối với Harry, là khi Piers hoàn hồn lại và nói:

“Ê, Harry, lúc đó mày đang nói chuyện với nó, phải không?”

But worst of all, for Harry at least, was Piers calming down enough to say,

“Harry was talking to it, weren’t you, Harry?”

 

Ông Dursley đợi cho đến khi Piers hoàn toàn rời khỏi nhà ông rồi mới quay sang Harry. Ông giận đến nỗi không thốt lên lời, chỉ hổn hển nói được mấy tiếng:

“Tới – gầm cầu thang – ở đó – nhịn ăn.” Rồi ông ngã vật xuống chiếc ghế bành, bà Dursley phải lật đật chạy đi rót cho ông một ly rượu vang lớn.

Uncle Vernon waited until Piers was safely out of the house be- fore starting on Harry. He was so angry he could hardly speak. He managed to say, “Go — cupboard — stay — no meals,” before he collapsed into a chair, and Aunt Petunia had to run and get him a large brandy.

 

Harry nằm dài trong phòng xép dưới gầm cầu thang thật lâu sau đó. Nó không biết bây giờ là mấy giờ mà cũng không chắc là gia đình Dursley đã hết ngủ chưa. Họ mà chưa ngủ thì nó không dám liều mạng mò vô bếp kiếm cái gì ăn.

Harry lay in his dark cupboard much later, wishing he had a watch. He didn’t know what time it was and he couldn’t be sure the Durs- leys were asleep yet. Until they were, he couldn’t risk sneaking to the kitchen for some food.

 

Nó đã sống ở nhà Dursley gần mười năm, mười năm khốn khổ, từ khi còn là một đứa trẻ sơ sinh và ba má nó chết vì một tai nạn xe cộ, theo như nó được biết. Nó không thể nhớ chuyện gì đã xảy ra với nó, ở trong chiếc xe bị nạn khiến ba má nó chết.

He’d lived with the Dursleys almost ten years, ten miserable years, as long as he could remember, ever since he’d been a baby and his parents had died in that car crash. He couldn’t remember being in the car when his parents had died.

Đôi khi, vào những lúc bị phạt nhốt trong gầm cầu thang nhiều giờ liền, nó vắt trí nhớ để nhớ lại và loáng thoáng thấy một hình ảnh lạ: Một lằn chớp xanh lè lóa mắt và một cơn đau buốt ngay giữa trán.

Sometimes, when he strained his memory during long hours in his cupboard, he came up with a strange vision: a blinding flash of green light and a burn- ing pain on his forehead.

 

Nó đoán là do vụ đụng xe gây ra, nhưng nó không tưởng tượng nổi lằn chớp xanh đó xuất phát từ đâu. Nó cũng không thể nhớ gì về ba má nó. Dì dượng Dursley không bao giờ nói cho nó biết chút gì về họ cả. Nó thì dĩ nhiên là bị cấm hỏi. Trong nhà Dursley không có tấm hình nào của ba má Harry.

This, he supposed, was the crash, though he couldn’t imagine where all the green light came from. He couldn’t remember his parents at all. His aunt and uncle never spoke about them, and of course he was forbidden to ask questions. There were no photographs of them in the house.

 

Hồi Harry còn nhỏ hơn nữa, nó từng mơ đi mơ lại một giấc mơ được một người bà con khác đến nhận, đem nó đi khỏi nhà Dursley. Nhưng chuyện đó không bao giờ xảy ra: Dursley là gia đình duy nhất cho nó dung thân.

When he had been younger, Harry had dreamed and dreamed of some unknown relation coming to take him away, but it had never happened; the Dursleys were his only family.

 

Dù vậy, đôi khi nó cũng nghĩ (hay hy vọng) rằng hình như có những người lạ mặt trên đường phố biết nó. Một ông già nhỏ thó đội cái nón chóp màu tím có lần cúi chào nó khi nó đi theo bà Dursley và Dudley đi mua sắm.

Yet sometimes he thought (or maybe hoped) that strangers in the street seemed to know him. Very strange strangers they were, too. A tiny man in a violet top hat had bowed to him once while out shopping with Aunt Petunia and Dudley.

 

Bà Dursley giận dữ hỏi nó có quen với ông già không, rồi hấp tấp kéo bọn trẻ ra khỏi tiệm mà không kịp mua sắm gì cả. Lại có cả một bà già trông rất hoang dại, mặc quần áo toàn màu xanh lá cây, vui vẻ vẫy chào nó trên xe buýt.

After asking Harry furiously if he knew the man, Aunt Petunia had rushed them out of the shop without buying anything. A wild-looking old woman dressed all in green had waved merrily at him once on a bus.

 

Rồi có một ông đầu hói mặc áo khoác màu tím dài thoòng đến bắt tay nó trên đường phố vào hôm kia, xong bước đi không nói một lời. Điều kỳ lạ nhất của những người này là khi Harry muốn đến gần họ thì họ dường như biến đi trong chớp mắt!

A bald man in a very long purple coat had actually shaken his hand in the street the other day and then walked away without a word. The weirdest thing about all these people was the way they seemed to vanish the second Harry tried to get a closer look.

 

Ở trường Harry không có bạn bè. Mọi người đều biết băng của Dudley rất ghét cái thằng Harry Potter bận đồ khín luộm thà luộm thuộm và đeo cặp kính gãy gọng bể tròng. Họ không muốn làm mếch lòng băng của Dudley.

At school, Harry had no one. Everybody knew that Dudley’s gang hated that odd Harry Potter in his baggy old clothes and broken glasses, and nobody liked to disagree with Dudley’s gang.

 

Chapter 1                                                                                                                            Chapter 3

🙏 Loving the content – Support me with a Coffee or a Cupcake

support comicqueen312.com

Paypal: https://www.paypal.com/paypalme/comicqueen?country.x=VN&locale.x=en_US

Leave a Reply