The journey from platform nine and three-quarters – Hành trình từ sân ga 9¾
Tháng hè cuối cùng Harry sống ở nhà ông bà Dursley không vui chút nào hết. Đúng là Dudley bây giờ sợ Harry đến nỗi không dám ở chỗ nào có mặt Harry. Còn ông bà Dursley thì không còn nhốt Harry dưới gầm cầu thang nữa, không bắt nó làm chuyện này chuyện kia nữa, cũng không quát thét nó nữa. Thực tế là bây giờ họ không thèm nói chuyện với nó.
Harry’s last month with the Dursleys wasn’t fun. True, Dudley was now so scared of Harry he wouldn’t stay in the same room, while Aunt Petunia and Uncle Vernon didn’t shut Harry in his cupboard, force him to do anything, or shout at him — in fact, they didn’t speak to him at all.
Nửa sợ nửa giận, họ hành động như thể không hề có sự tồn tại của Harry trong nhà họ. Mặc dù về nhiều mặt, điều đó có thể coi như là một sự tiến bộ, nhưng như vậy hoài thì thật là căng thẳng.
Half terrified, half furious, they acted as though any chair with Harry in it were empty. Although this was an improvement in many ways, it did be- come a bit depressing after a while.
Harry cứ rúc trong phòng mình, làm bạn với con cú. Nó đã quyết định đặt tên con cú là Hedwig. Cái tên này nó thấy có trong cuốn Lịch sử pháp thuật. Những cuốn sách giáo khoa mới của nó đều rất thú vị. Nó cứ nằm dài trên giường đọc sách đến khuya, con Hedwig cứ bay xẹt ra xẹt vô cửa sổ tùy hứng. Cũng may là bà Dursley không còn vô phòng nó dọn dẹp nữa, bởi vì Hedwig cứ tha chuột chết về phòng.
Harry kept to his room, with his new owl for company. He had decided to call her Hedwig, a name he had found in A History of Magic. His school books were very interesting. He lay on his bed reading late into the night, Hedwig swooping in and out of the open window as she pleased. It was lucky that Aunt Petunia didn’t come in to vacuum anymore, because Hedwig kept bringing back dead mice.
Mỗi đêm trước khi đi ngủ, Harry lại gạch bỏ đi một ngày trong miếng giấy nó dán trên tường, đếm coi còn lại bao nhiêu ngày nữa thì đến ngày một tháng chín.
Every night before he went to sleep, Harry ticked off another day on the piece of paper he had pinned to the wall, count- ing down to September the first.
Vào ngày cuối cùng của tháng tám, nó nghĩ là dù sao cũng nên nói với dì dượng của nó về chuyện nó phải ra nhà ga Ngã Tư Vua vào hôm sau. Nó đi vô phòng khách, nơi cả nhà Dursley đang xem một chương trình đố vui trên ti-vi. Nó tằng hắng để mọi người biết là nó có mặt ở đó. Dudley hét lên một tiếng ghê tởm rồi co giò chạy ra khỏi phòng.
On the last day of August he thought he’d better speak to his aunt and uncle about getting to King’s Cross station the next day, so he went down to the living room where they were watching a quiz show on television. He cleared his throat to let them know he was there, and Dudley screamed and ran from the room.
“Dạ… thưa dượng…”
Ông Dursley ậm ừ để tỏ cho nó biết là ông đang nghe.
“Er — Uncle Vernon?”
Uncle Vernon grunted to show he was listening.
“Dạ… con cần phải đến nhà ga Ngã Tư Vua vào ngày mai để… để… đến trường Hogwarts.”
“Er — I need to be at King’s Cross tomorrow to — to go to Hogwarts.”
Ông Dursley lại ậm ừ.
Uncle Vernon grunted again.
“Dượng cho con quá giang tới nhà ga được không ạ?”
“Would it be all right if you gave me a lift?”
Ậm ừ. Harry cho rằng như vậy là đồng ý.
“Cám ơn dượng.”
Grunt. Harry supposed that meant yes.
“Thank you.”
Nó sắp đi trở về phòng thì dượng Dursley mở miệng nói:
“Đi học trường phù thủy mà đi bằng xe điện thì ngộ thật à. Mấy tấm thảm thần đem ngâm xà bông giặt chưa khô hả?”
He was about to go back upstairs when Uncle Vernon actually spoke.
“Funny way to get to a wizards’ school, the train. Magic carpets all got punctures, have they?”
Harry không nói gì.
“Mà cái trường đó ở đâu?”
Harry didn’t say anything.
“Where is this school, anyway?”
Harry sực nghĩ ra điều này lần đầu tiên. Ừ, cái trường ở đâu?
“Con không biết.”
“I don’t know,” said Harry, realizing this for the first time.
Nó móc túi lấy tấm vé mà lão Hagrid đã đưa cho nó. Nó đọc:
“Con chỉ cần đi chuyến tàu rời sân ga số chín ba phần tư vào lúc mười một giờ.”
He pulled the ticket Hagrid had given him out of his pocket.
“I just take the train from platform nine and three-quarters at eleven o’clock,” he read.
Dì dượng nó trừng mắt hỏi:
“Sân ga số mấy?”
“Chín-ba-phần-tư.”
His aunt and uncle stared.
“Platform what?”
“Nine and three-quarters.”
Dượng Dursley nói:
“Nói chuyện điên khùng! Làm gì có sân ga số Chín-ba-phần-tư!”
“Don’t talk rubbish,” said Uncle Vernon. “There is no platform nine and three-quarters.”
“Vé của con ghi như vậy mà.”
“It’s on my ticket.”
“Nào hú, nào sủa, lũ bây có đủ thứ chuyện tào lao điên khùng. Để rồi mày xem. Mày chỉ cần chờ đó mà xem. Được rồi, tao sẽ đưa mày tới nhà ga Ngã Tư Vua. Đằng nào chúng ta cũng đi Luân Đôn ngày mai, chứ không ta chẳng hơi đâu mà phiền lụy.”
“Barking,” said Uncle Vernon, “howling mad, the lot of them. You’ll see. You just wait. All right, we’ll take you to King’s Cross. We’re going up to London tomorrow anyway, or I wouldn’t bother.”
Cố tìm sự thân thiện, Harry hỏi:
“Mai dượng đi Luân Đôn có chuyện gì?”
“Why are you going to London?” Harry asked, trying to keep things friendly.
Dượng Dursley gầm gừ:
“Đưa Dudley đến bệnh viện để cắt bỏ cái đuôi quỷ quái ấy trước khi nhập học trường Smeltings.”
“Taking Dudley to the hospital,” growled Uncle Vernon. “Got to have that ruddy tail removed before he goes to Smeltings.”
Sáng hôm sau, Harry thức dậy lúc năm giờ. Nó hồi hộp háo hức đến nỗi không thể ngủ lại. Nó dậy mặc quần jean vào, vì nó không muốn đi đến nhà ga trong bộ áo chùng phù thủy. Khi nào lên tàu nó sẽ thay ra. Nó dò lại danh sách những thứ cần thiết để nhập trường Hogwarts một lần nữa, để chắc là nó không hề sót một thứ gì. Con Hedwig đã được nhốt cẩn thận trong lồng đóng kín. Xong, nó rinh đồ xuống hành lang và chờ gia đình Dursley thức dậy.
Harry woke at five o’clock the next morning and was too excited and nervous to go back to sleep. He got up and pulled on his jeans because he didn’t want to walk into the station in his wizard’s robes — he’d change on the train. He checked his Hogwarts list yet again to make sure he had everything he needed, saw that Hedwig was shut safely in her cage, and then paced the room, waiting for the Dursleys to get up.
Hai tiếng đồng hồ sau, cái rương khổng lồ nặng nề của Harry được chất lên xe của ông Dursley. Bà Dursley năn nỉ hết lời mới đem được Dudley ngồi bên cạnh Harry. Và chiếc xe chạy.
Two hours later, Harry’s huge, heavy trunk had been loaded into the Dursleys’ car, Aunt Petunia had talked Dudley into sitting next to Harry, and they had set off.
Họ đến nhà ga Ngã Tư Vua lúc mười giờ rưỡi. Ông Dursley chất cái rương của Harry lên chiếc xe đẩy và đẩy vô sân ga cho nó. Harry đang suy nghĩ về về lòng tốt đặc biệt này khác thường này thì ông Dursley đứng khựng lại. Ông ngó các sân ga với nụ cười nham hiểm trên mặt.
They reached King’s Cross at half past ten. Uncle Vernon dumped Harry’s trunk onto a cart and wheeled it into the station for him. Harry thought this was strangely kind until Uncle Vernon stopped dead, facing the platforms with a nasty grin on his face.
“Tới rồi đó nhóc. Sân ga số chín…, số mười. Sân ga của mày chắc ở là ở đâu khoảng giữa, nhưng chắc là người ta chưa xây xong hả?”
“Well, there you are, boy. Platform nine — platform ten. Your platform should be somewhere in the middle, but they don’t seem to have built it yet, do they?”
Dĩ nhiên ông Dursley nói hoàn toàn đúng. Có một con số 9 rất lớn bằng nhựa ở trên một sân ga, và một con số 10 cũng rất lớn ở trên một sân ga khác kế bên. Và ở giữa hai sân ga đó không có cái gì khác.
He was quite right, of course. There was a big plastic number nine over one platform and a big plastic number ten over the one next to it, and in the middle, nothing at all.
Ông Dursley cười nham nhở hơn nữa:
“Đi học cho giỏi nghen.”
“Have a good term,” said Uncle Vernon with an even nastier smile.
Ông bỏ đi không thèm nói thêm tiếng nào nữa. Harry quay lại và thấy gia đình Dursley đã lái xe đi, cả ba người ngồi trên xe cười ngất.
He left without another word. Harry turned and saw the Dursleys drive away. All three of them were laughing.
Miệng của Harry trở nên khô đắng. Nó phải làm gì nữa đây? Nhiều người bắt đầu nhìn nó với ánh mắt trêu cợt, vì nó kè kè con Hedwig. Chắc là nó phải hỏi thăm ai đó.
Harry’s mouth went rather dry. What on earth was he going to do? He was starting to attract a lot of funny looks, because of Hedwig. He’d have to ask someone.
Nó đón đường một người bảo vệ để hỏi, nhưng không dám nói đến sân ga số Chín-ba-phần-tư. Người bảo vệ chưa từng nghe nói đến trường Hogwarts, và vì Harry không thể nói được là Hogwarts nằm ở vùng nào trên nước Anh, ông ta bắt đầu bực mình, như thể Harry cố tình giả ngây ngốc.
He stopped a passing guard, but didn’t dare mention platform nine and three-quarters. The guard had never heard of Hogwarts and when Harry couldn’t even tell him what part of the country it was in, he started to get annoyed, as though Harry was being stu- pid on purpose.
Thất vọng, Harry hỏi xem chuyến tàu nào khởi hành lúc mười một giờ. Nhưng người bảo vệ nói không có chuyến nào cả. Cuối cùng ông ta bỏ đi đâu, làu bàu chuyện mất thì giờ. Harry cố gắng không phát hoảng vào lúc này. Theo như cái đồng hồ to bành gắn trên tấm bảng thông báo tàu đến, nó còn mười phút nữa để lên chuyến tàu đến Hogwarts, mà nó thì không biết làm sao lên được tàu. Nó bị kẹt cứng giữa sân ga với cái rương to tổ nái mà nó không tài nào xoay xở nổi, trong túi chỉ có tiền phù thủy, và bên cạnh chỉ có một con cú.
Getting desperate, Harry asked for the train that left at eleven o’clock, but the guard said there wasn’t one. In the end the guard strode away, muttering about time wasters. Harry was now trying hard not to panic. According to the large clock over the arrivals board, he had ten minutes left to get on the train to Hog- warts and he had no idea how to do it; he was stranded in the mid- dle of a station with a trunk he could hardly lift, a pocket full of wizard money, and a large owl.
Lão Hagrid ắt là đã quên dặn nó điều gì đó, chẳng hạn như kiểu gõ lên viên gạch thứ ba tính từ bên trái để mở cánh cổng vào Hẻm Xéo. Nó đang băn khoăn không biết có nên rút cây đũa phép ra, gõ vào quầy soát vé nằm giữa sân ga số chín và sân ga số mười không…
Hagrid must have forgotten to tell him something you had to do, like tapping the third brick on the left to get into Diagon Alley. He wondered if he should get out his wand and start tapping the ticket inspector’s stand between platforms nine and ten.
Đúng lúc đó có một nhóm người đi tới sau lưng nó và nó nghe lóm được vài ba câu họ đang nói.
“… đầy nhóc Muggles, biết ngay mà…”
At that moment a group of people passed just behind him and he caught a few words of what they were saying.
“— packed with Muggles, of course —”
Harry quay phắt lại. Người nói là một người đàn bà béo múp míp. Bà đang trò chuyện với bốn cậu con trai, tất cả đều có tóc đỏ hoe. Mỗi đứa cũng đẩy trước mặt một cái rương giống như cái của Harry – Và họ đều có cú.
Harry swung round. The speaker was a plump woman who was talking to four boys, all with flaming red hair. Each of them was pushing a trunk like Harry’s in front of him — and they had an owl.
Trống ngực đánh liên hồi, Harry lập tức đẩy cái rương theo họ. Họ dừng lại, Harry cũng dừng lại, đủ gần để nghe rõ hơn những gì họ nói.
Heart hammering, Harry pushed his cart after them. They stopped and so did he, just near enough to hear what they were say- ing.
Bà mẹ nói với đứa con:
“Xem coi, sân ga số mấy?”
“Chín-ba-phần-tư!”
Một bé gái nhỏ xíu, cũng tóc đỏ nắm tay bà mẹ nài nỉ:
“Má ơi, con muốn đi…”
“Now, what’s the platform number?” said the boys’ mother.
“Nine and three-quarters!” piped a small girl, also red-headed, who was holding her hand, “Mom, can’t I go . . .”
“Con chưa đủ tuổi đi học mà Ginny. Yên nào. Được rồi, Percy, con đi trước.”
“You’re not old enough, Ginny, now be quiet. All right, Percy, you go first.”
Đứa con trai có vẻ là đứa lớn nhất trong bọn bèn đi thẳng về phía sân ga số chín và sân ga số mười. Harry chăm chú nhìn, cẩn thận không chớp mắt lấy một cái để không bị mất hút cậu ta. Nhưng vừa đúng lúc thằng bé đến được hàng rào ngăn hai sân ga thì một đám đông du khách kéo tràn qua trước mặt Harry. Khi tên khách đeo ba lô cuối cùng đi ra khỏi tầm nhìn của Harry thì thằng bé kia đã tan biến.
What looked like the oldest boy marched toward platforms nine and ten. Harry watched, careful not to blink in case he missed it — but just as the boy reached the dividing barrier between the two platforms, a large crowd of tourists came swarming in front of him and by the time the last backpack had cleared away, the boy had vanished.
Người đàn bà múp míp nói:
“Fred, tới phiên con.”
“Fred, you next,” the plump woman said.
Một trong mấy đứa con trai còn lại nói:
“Con không phải là Fred, con là George. Thật tình, thưa bà, bà tự xưng là mẹ của chúng con, vậy bà không thể phân biệt con là George sao?”
“I’m not Fred, I’m George,” said the boy. “Honestly, woman, you call yourself our mother? Can’t you tell I’m George?”
“Xin lỗi con, George à.”
“Đùa tí thôi, chứ con là Fred.”
“Sorry, George, dear.”
“Only joking, I am Fred,” said the boy, and off he went.
Thằng bé nói xong là chạy mất, người em song sinh của nó hối hả chạy theo gọi ơi ới. Lẽ ra chúng đừng chạy nhanh quá như vậy. Chỉ nháng một cái là thằng chạy trước mất tiêu. Nhưng mà mất tiêu đi đâu? Harry không thể hiểu được.
His twin called after him to hurry up, and he must have done so, be- cause a second later, he had gone — but how had he done it?
Bây giờ đến đứa con trai thứ ba đang rón rén về phía hàng rào. Nó gần tới rồi, bỗng nhiên hết sức đột ngột, không thấy nó đâu nữa.
Now the third brother was walking briskly toward the barrier — he was almost there — and then, quite suddenly, he wasn’t any- where.
Không có gì xảy ra cả.
Harry đành hỏi thăm người đàn bà múp míp:
“Xin phép hỏi bác…”
There was nothing else for it.
“Excuse me,” Harry said to the plump woman.
Bà đáp.
“Chào con, lần đầu tiên đến Hogwarts hở? Thằng Ron nhà bác cũng mới toanh.”
“Hello, dear,” she said. “First time at Hogwarts? Ron’s new, too.”
Bà chỉ vào đứa con trai nhỏ nhất của mình. Nó cao, gầy, lóng ngóng, mặt đầy tàn nhang, bàn tay bàn chân to bè, và mũi thì dài sọc.
She pointed at the last and youngest of her sons. He was tall, thin, and gangling, with freckles, big hands and feet, and a long nose.
Harry đáp:
“Dạ. Nhưng mà… nhưng mà… con không biết làm sao… làm sao…”
“Yes,” said Harry. “The thing is — the thing is, I don’t know how to —”
“Làm sao vô sân ga hả?”
Người đàn bà múp míp tử tế tiếp lời, Harry gật đầu.
“How to get onto the platform?” she said kindly, and Harry nodded.
Bà nói:
“Đừng lo, tất cả những gì con phải làm là đi thẳng vào hàng rào giữa sân ga số chín và sân ga số mười. Đừng dừng lại và đừng sợ đâm đầu vào đó, điều này rất quan trọng. Tốt nhất là cứ chạy nhanh một chút nếu con thấy sợ. Con đi đi, đi trước Ron đi.”
“Not to worry,” she said. “All you have to do is walk straight at the barrier between platforms nine and ten. Don’t stop and don’t be scared you’ll crash into it, that’s very important. Best do it at a bit of a run if you’re nervous. Go on, go now before Ron.”
“Ơ… dạ.”
Harry chào rồi đẩy cái rương của mình quay lại, đăm đăm ngó cái hàng rào. Trông hết sức chắc chắn.
“Er — okay,” said Harry.
He pushed his trolley around and stared at the barrier. It looked very solid.
Nó bắt đầu đi về phía đó. Người ta vượt qua mặt nó để đến sân ga số chín hoặc số mười. Nó đi mau hơn. Nó sắp đụng vào hàng rào và thế nào nó cũng bị rắc rối. Tựa người vô cần chiếc xe đẩy, nó dồn sức đẩy xe chạy tới thật nhanh. Hàng rào gần hơn, gần hơn và gần hơn. Nó không thể nào ngừng được nữa rồi. Chiếc xe đẩy chạy muốn vượt khỏi tay nó lôi nó theo. Chỉ còn cách hàng rào một bước mà thôi. Nó nhắm nghiền mắt lại để khỏi thấy một vụ tông rào khốc liệt.
He started to walk toward it. People jostled him on their way to platforms nine and ten. Harry walked more quickly. He was going to smash right into that barrier and then he’d be in trouble — lean- ing forward on his cart, he broke into a heavy run — the barrier was coming nearer and nearer — he wouldn’t be able to stop — the cart was out of control — he was a foot away — he closed his eyes ready for the crash —
Nhưng điều đó chẳng xảy ra… Harry cứ đẩy xe chạy hoài. Nó bèn mở mắt ra.
It didn’t come . . . he kept on running . . . he opened his eyes.
Trước mắt nó là một đầu máy hơi nước màu đỏ tươi đang nằm đợi trên đường rày kế bên sân ga đông đúc hành khách. Một tấm bảng trên cao mang hàng chữ Tốc hành Hogwarts, khởi hành lúc mười một giờ. Harry ngoái nhìn lại phía sau và thấy một cái cổng sắt thô ở đúng ngay chỗ cái hàng rào trước đó, trên cổng có ghi: Sân ga số Chín-ba-phần-tư.
A scarlet steam engine was waiting next to a platform packed with people. A sign overhead said Hogwarts Express, eleven o’clock. Harry looked behind him and saw a wrought-iron archway where the barrier had been, with the words Platform Nine and Three-Quarters on it.
Thế là Harry đã vô được sân ga Chín-ba-phần-tư.
He had done it.
Khói từ đầu máy xe lửa bảng lảng trên đầu đám đông đang trò chuyện, trong khi những con mèo lông đủ màu ưỡn ẹo quẩn chân người khắp đó đây. Bọn cú vọ thì hí hóe nhau theo phong cách cú vọ, giữa những tiếng lóe xóe và tiếng rương hòm ken két cạ vào nhau.
Smoke from the engine drifted over the heads of the chattering crowd, while cats of every color wound here and there between their legs. Owls hooted to one another in a disgruntled sort of way over the babble and the scraping of heavy trunks.
Những toa xe đầu đã đầy nhóc học sinh, có mấy đứa vẫn thò đầu ra cửa sổ nói chuyện với gia đình, mấy đứa nữa đang cự cãi nhau giành ghế. Harry đẩy chiếc xe hành lý của mình xuống sân ga tìm một ghế trống, đi ngang qua một thằng bé mặt tròn quay đang kêu:
“Bà ơi, con làm mất cóc nữa rồi!”
“Ôi, Neville!”, Harry nghe tiếng thở dài của một bà già.”
The first few carriages were already packed with students, some hanging out of the window to talk to their families, some fighting over seats. Harry pushed his cart off down the platform in search of an empty seat. He passed a round-faced boy who was saying, “Gran, I’ve lost my toad again.”
“Oh, Neville,” he heard the old woman sigh.
Góc kia, một thằng bé khác có mái tóc bết từng lọn đứng giữa một đám nhóc đang nài nỉ:
“Cho coi chút đi, Lee. Coi chút thôi mà.”
A boy with dreadlocks was surrounded by a small crowd. “Give us a look, Lee, go on.”
Thằng bé bèn hé nắp cái hộp nó đang ôm trong tay. Bọn nhóc chung quanh kêu thét lên, hết hồn nhảy thối lui khi thấy một cái chân dài lông lá thò ra từ trong hộp.
The boy lifted the lid of a box in his arms, and the people around him shrieked and yelled as something inside poked out a long, hairy leg.
Harry chen lấn đám đông cho đến khi kiếm được một toa trống gần cuối xe lửa. Nó đẩy cú Hedwig vô trước rồi mới bắt đầu vật lộn với cái rương khổng lồ của mình, vừa nâng vừa đẩy cái rương về phía cửa toa xe. Harry cố sức lê cái rương lên từng nấc một, nhưng không cách gì nhấc được một đầu rương lên, đã vậy còn rớt trúng chân đau điếng hai lần.
Harry pressed on through the crowd until he found an empty compartment near the end of the train. He put Hedwig inside first and then started to shove and heave his trunk toward the train door. He tried to lift it up the steps but could hardly raise one end and twice he dropped it painfully on his foot.
Trong khi đang loay hoay đau đớn thì nghe có tiếng hỏi:
“Cần giúp một tay không?”
Thì ra là một trong hai anh em sinh đôi tóc đỏ mà Harry đi theo từ ngoài quầy bán vé.
“Want a hand?” It was one of the red-haired twins he’d followed through the barrier.
Harry hổn hển:
“Ôi! Cám ơn.”
“Yes, please,” Harry panted.
“Ê, Fred! Lại đây đỡ một tay coi!”
“Oy, Fred! C’mere and help!”
Nhờ hai anh em sinh đôi giúp, cuối cùng Harry cũng đưa được cái rương vô một góc toa tàu.
With the twins’ help, Harry’s trunk was at last tucked away in a corner of the compartment.
Nó vừa vuốt mớ tóc đẫm mồ hôi trên trán nói:
“Cám ơn nha!”
Bỗng nhiên, một trong hai anh em sinh đôi chỉ vào vết thẹo hình tia chớp trên trán Harry, kêu lên:
“Cái gì kia?”
“Thanks,” said Harry, pushing his sweaty hair out of his eyes.
“What’s that?” said one of the twins suddenly, pointing at Harry’s lightning scar.
“Á…, cậu là…?” Đứa thứ hai lắp bắp.
“Blimey,” said the other twin. “Are you — ?”
“Đúng là cậu ấy rồi,” đứa sanh đôi đầu tiên lại nói, “đúng không?”
Harry ngơ ngác:
“Đúng cái gì?”
“He is,” said the first twin. “Aren’t you?” he added to Harry.
“What?” said Harry.
Cả hai anh em sanh đôi đồng thanh nói:
“Harry Potter.”
“Harry Potter,” chorused the twins.
“Ờ, nó…” Harry vỡ lẽ ra “À… ý tôi nói, vâng, vâng…, là tôi đó mà.”
“Oh, him,” said Harry. “I mean, yes, I am.”
Hai thằng bé kia đực mặt ra nhìn Harry khiến nó ngượng chín cả người. May sao vừa lúc đó, bên ngoài cửa toa xe lửa cất lên một giọng nói dịu dàng làm Harry bớt căng thẳng.
The two boys gawked at him, and Harry felt himself turning red. Then, to his relief, a voice came floating in through the train’s open door.
“Fred ơi? George à? Các con có trong đó không?”
“Tới liền, má ơi.”
“Fred? George? Are you there?” “Coming, Mom.”
Hai anh em nhìn Harry lần nữa rồi mới nhảy ra khỏi toa xe.
With a last look at Harry, the twins hopped off the train.
Harry ngồi xuống cạnh cửa sổ, hơi khuất nhưng cũng có thể nhìn thấy gia đình tóc đỏ đứng trên sân ga và nghe tiếng họ chuyện trò. Người mẹ rút ra một chiếc khăn tay bảo:
“Ron, có cái gì dính trên mũi con kìa.”
Harry sat down next to the window where, half hidden, he could watch the red-haired family on the platform and hear what they were saying. Their mother had just taken out her handker- chief.
“Ron, you’ve got something on your nose.”
Thằng bé nhỏ nhất trong đám ngọ nguậy né tránh, nhưng bà mẹ đã tóm lấy cổ nó và dùng khăn tay chùi chóp mũi nó. Nó vùng vằn ngọ nguậy:
“Má… buông con ra.”
The youngest boy tried to jerk out of the way, but she grabbed him and began rubbing the end of his nose.
“Mom — geroff.” He wriggled free.
Một trong hai đứa sinh đôi nói:
“Ý ẹ… Ronnie mũi thò lò…”
“Aaah, has ickle Ronnie got somefink on his nosie?” said one of the twins.
“Im đi!” Ron hét.
“Shut up,” said Ron.
Mẹ chúng hỏi:
“Percy đâu rồi?”
“Ảnh đang tới kìa.”
“Where’s Percy?” said their mother.
“He’s coming now.”
Đứa lớn nhất trong mấy anh em xuất hiện. Anh chàng đã thay bộ đồng phục đen rộng lùng thùng của học sinh Hogwarts và Harry thấy trước ngực áo anh là một phù hiệu bạc, trên đó có một mẫu tự P*.
The oldest boy came striding into sight. He had already changed into his billowing black Hogwarts robes, and Harry noticed a shiny red and gold badge on his chest with the letter P on it.
Anh nói:
“Không ở lâu được, má à! Con ở toa phía trên kia. Có hai toa dành riêng cho các huynh trưởng.”
“Can’t stay long, Mother,” he said. “I’m up front, the prefects have got two compartments to themselves —”
Một trong hai đứa sinh đôi tỏ vẻ ngạc nhiên:
“Ủa? Anh là huynh trưởng hả anh Percy? Lẽ ra anh phải nói chớ! Tụi em chẳng biết gì cả.”
“Oh, are you a prefect, Percy?” said one of the twins, with an air of great surprise. “You should have said something, we had no idea.”
“Có mà,” đứa sinh đôi thứ hai nói chen. “Khoan, tao nhớ có lần ảnh nói gì đó về vụ huynh trưởng. Hình như có một lần…”
“Hang on, I think I remember him saying something about it,” said the other twin. “Once —”
“Hổng chừng hai lần…”
“Or twice —”
“Để nhớ coi…”
“A minute —”
“Hình như nói suốt mùa hè…”
“All summer —”
Anh Percy huynh trưởng bảo:
“Thôi im nào!”
“Oh, shut up,” said Percy the Prefect.
Nhưng một trong hai anh em sinh đôi vẫn thắc mắc:
“Nhưng mà tại sao anh Percy vẫn có đồng phục mới?”
“How come Percy gets new robes, anyway?” said one of the twins.
Bà mẹ nói với vẻ trìu mến:
“Bởi vì anh con là huynh trưởng. Mà thôi, cục cưng, chúc các con một niên học tốt. Nhớ gởi cú cho má khi tới nơi nghen!”
“Because he’s a prefect,” said their mother fondly. “All right, dear, well, have a good term — send me an owl when you get there.”
Bà hôn lên má Percy tiễn anh đi. Rồi bà quay lại hai cậu song sinh dặn dò:
“Bây giờ, hai con… liệu mà cư xử, năm nay các con đã lớn rồi. Nếu má còn nhận được cú báo là các con đã làm… làm những chuyện như… nổ bồn cầu tiêu hay…”
She kissed Percy on the cheek and he left. Then she turned to the twins.
“Now, you two — this year, you behave yourselves. If I get one more owl telling me you’ve — you’ve blown up a toilet or —”
“Nổ bồn cầu tiêu? Tụi con đâu có làm nổ bồn cầu tiêu bao giờ đâu?”, một đứa sinh đôi kêu lên.
Nhưng đứa sinh đôi thứ hai lại nói:
“Ý của má hay đó! Cám ơn má!”
“Blown up a toilet? We’ve never blown up a toilet.”
“Great idea though, thanks, Mom.”
“Má không nói đùa đâu. Nhớ trông nom Ron với.”
“Má đừng lo. Có tụi con thì đảm bảo nhóc Ron bé bỏng của má chẳng việc gì đâu.”
“It’s not funny. And look after Ron.”
“Don’t worry, ickle Ronniekins is safe with us.”
“Im đi.” Ron lại la lên. Nó cao gần bằng hai ông anh sinh đôi và cái mũi vẫn còn hồng hồng vì bị mẹ nó vò lúc nãy.
“Shut up,” said Ron again. He was almost as tall as the twins already and his nose was still pink where his mother had rubbed it.
“À, má đoán thử coi, đoán thử hồi nãy tụi con gặp ai trên xe lửa coi?”
“Hey, Mom, guess what? Guess who we just met on the train?”
Harry vội dựa lưng sát ghế để gia đình tóc đỏ không thể nhìn thấy nó.
“Má nhớ thằng nhỏ tóc đen đứng gần mình ngoài ga không? Má biết nó là ai không?”
Harry leaned back quickly so they couldn’t see him looking.
“You know that black-haired boy who was near us in the station? Know who he is?”
“Ai?”
“Who?”
“HARRY POTTER.”
Harry nghe giọng đứa con gái nhỏ:
“Ôi, má cho con lên toa xe nhìn ảnh một cái nha, má? Má! Một cái thôi!”
Harry heard the little girl’s voice.
“Oh, Mom, can I go on the train and see him, Mom, oh please. . . .”
“Không được, Ginny. Con đã nhìn thấy người ta rồi. Người ta không phải là thú lạ trong sở thú cho con nhìn chòng chọc đâu. Mà có đúng là cậu ấy không, Fred? Làm sao con biết được?”
“You’ve already seen him, Ginny, and the poor boy isn’t some- thing you goggle at in a zoo. Is he really, Fred? How do you know?”
“Con hỏi nó. Con nhìn thấy cái thẹo của nó. Đúng là cái thẹo đó… y như tia chớp.”
“Asked him. Saw his scar. It’s really there — like lightning.”
“Tội nghiệp. Hèn gì má thấy nó đơn độc. Lúc nãy nó hỏi má cách vô sân ga mà hết sức lễ phép, tội quá!”
“Poor dear — no wonder he was alone, I wondered. He was ever so polite when he asked how to get onto the platform.”
“Thôi, má! Theo má thì liệu nó có còn nhớ được Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đấy trông ra làm sao không?”
“Never mind that, do you think he remembers what You-Know- Who looks like?”
Bà mẹ bỗng đanh mặt:
“Má cấm con hỏi nó điều đó. Liệu hồn. Chớ bao giờ đá động đến điều ấy. Bộ nó cần nghe nhắc nhở đến điều khủng khiếp ấy vào ngày đầu tiên đến trường sao?”
Their mother suddenly became very stern.
“I forbid you to ask him, Fred. No, don’t you dare. As though he needs reminding of that on his first day at school.”
“Thôi được, má cứ yên tâm.”
“All right, keep your hair on.”
Một tiếng còi tàu vang lên.
“Mau lên tàu đi các con!”
Bà mẹ hối, ba đứa con trai vội trèo lên toa xe. Chúng nhoài người ra ngoài cửa sổ cho mẹ hôn từ giã, và đứa con gái nhỏ nhất òa ra khóc.
A whistle sounded.
“Hurry up!” their mother said, and the three boys clambered onto the train. They leaned out of the window for her to kiss them good-bye, and their younger sister began to cry.
“Đừng khóc Ginny. Bọn anh sẽ gởi nhiều, thật nhiều cú cho em mà.”
“Bọn anh cũng sẽ gởi cho em một cái bồn cầu tiêu Hogwarts.”
“Don’t, Ginny, we’ll send you loads of owls.”
“We’ll send you a Hogwarts toilet seat.”
“George!”
“Con nói giỡn mà má!”
“Only joking, Mom.”
Tàu lửa bắt đầu chuyển bánh. Harry nhìn thấy bà mẹ đứng vẫy tay theo các con và cô em gái út vừa khóc vừa chạy theo đoàn tàu cho đến khi tàu tăng tốc độ bỏ xa cô bé. Cô đành đứng lại cố vẫy tay theo.
The train began to move. Harry saw the boys’ mother waving and their sister, half laughing, half crying, running to keep up with the train until it gathered too much speed, then she fell back and waved.
Harry vẫn ngoái nhìn cô bé và bà mẹ mãi cho đến khi họ khuất sau những khúc quanh của đoàn tàu. Qua cửa sổ toa tàu, những ngôi nhà lướt nhanh. Harry thấy lòng sao mà hồi hộp. Nó không biết rồi sắp phải làm gì. Làm gì thì làm, chắc cũng còn hay ho hơn những thứ mà nó bỏ lại sau lưng.
Harry watched the girl and her mother disappear as the train rounded the corner. Houses flashed past the window. Harry felt a great leap of excitement. He didn’t know what he was going to — but it had to be better than what he was leaving behind.
Cửa toa tàu nhẹ mở và thằng em út trong Đám anh em tóc đỏ thò đầu vào. Nó chỉ vào chỗ đối diện với Harry hỏi:
“Có ai ngồi ở chỗ này không bồ? Mấy toa khác hết chỗ rồi.”
The door of the compartment slid open and the youngest red- headed boy came in.
“Anyone sitting there?” he asked, pointing at the seat opposite Harry. “Everywhere else is full.”
Harry lắc đầu, thằng bé ngồi xuống. Nó liếc Harry rồi nhìn thật nhanh ra ngoài cửa sổ, giả đò như không hề nhìn Harry. Trên mũi nó vẫn còn một vết đen.
Harry shook his head and the boy sat down. He glanced at Harry and then looked quickly out of the window, pretending he hadn’t looked. Harry saw he still had a black mark on his nose.
“Ê, Ron.”
Hai anh em sinh đôi quay trở lại, một đứa nói:
“Ron nè, tụi anh lên toa giữa nhe – Thằng Lee Jordan có một con nhện lông khổng lồ ở trên đó.”
“Hey, Ron.”
The twins were back.
“Listen, we’re going down the middle of the train — Lee Jor- dan’s got a giant tarantula down there.”
Ron lầu bầu.
“Ừ.”
“Right,” mumbled Ron.
Đứa sinh đôi thứ hai bảo:
“Harry, hồi nãy tụi này quên giới thiệu. Tụi này là Fred và George Weasley. Còn đây là Ron, em của tụi này. Hẹn gặp lại sau nha. Chào!”
“Harry,” said the other twin, “did we introduce ourselves? Fred and George Weasley. And this is Ron, our brother. See you later, then.”
Harry và Ron cùng nói:
“Chào!”
“Bye,” said Harry and Ron.
Hai anh em sinh đôi lách qua toa kế. Cánh cửa ngăn toa đóng lại sau lưng chúng.
The twins slid the compartment door shut behind them.
Ron buột miệng hỏi:
“Bồ là Harry Potter thiệt hả?”
“Are you really Harry Potter?” Ron blurted out.
Harry gật đầu.
Harry nodded.
“Thiệt hả? Ơ… vậy mà mình cứ tưởng là anh Fred và George nói giỡn. Vậy đúng là bồ có cái… a… cái…”
“Oh — well, I thought it might be one of Fred and George’s jokes,” said Ron. “And have you really got — you know . . .”
Nó chỉ lên trán Harry.
He pointed at Harry’s forehead.
Harry đưa tay vén mớ tóc rũ trên trán để lộ ra cái thẹo hình tia chớp. Ron nhìn cái thẹo đăm đăm.
“Vậy ra đó là chỗ mà Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đấy đã…”
Harry pulled back his bangs to show the lightning scar. Ron stared.
“So that’s where You-Know-Who — ?”
“Phải.” Harry nói. “Nhưng mà tôi chả nhớ được gì về chuyện đó cả.”
“Yes,” said Harry, “but I can’t remember it.”
“Không nhớ gì hết trơn?”
“Nothing?” said Ron eagerly.
“Ờ… có nhớ ánh sáng xanh lè, nhưng không nhớ thêm được gì nữa.”
“Well — I remember a lot of green light, but nothing else.”
“Chà!”
Ron ngồi nhìn chằm chằm Harry một lát, rồi như chợt nhận ra hành động của mình là khiếm nhã, nó bèn quay mặt nhìn ra cửa sổ thật nhanh.
“Wow,” said Ron. He sat and stared at Harry for a few moments, then, as though he had suddenly realized what he was doing, he looked quickly out of the window again.
Harry cũng tò mò muốn biết về Ron không kém. Nó hỏi Ron:
“Cả nhà bồ đều là phù thủy hả?”
“Are all your family wizards?” asked Harry, who found Ron just as interesting as Ron found him.
Ron đáp:
“Ơ… phải. Mình nghĩ vậy… Hình như má mình có một người anh họ làm kế toán, nhưng mà nhà mình không hề nhắc đến ông ấy.”
“Er — yes, I think so,” said Ron. “I think Mom’s got a second cousin who’s an accountant, but we never talk about him.”
“Vậy là bồ biết nhiều phép thuật lắm hả?”
“So you must know loads of magic already.”
Gia đình Weasley rõ ràng là một trong những gia đình phù thủy lâu đời mà thằng bé nhợt nhạt Harry gặp ở Hẻm Xéo có nhắc tới. Ron hỏi:
“Mình nghe nói bồ sống với dân Muggles hả? Họ ra làm sao?”
The Weasleys were clearly one of those old wizarding families the pale boy in Diagon Alley had talked about.
“I heard you went to live with Muggles,” said Ron. “What are they like?”
“Khủng khiếp! – À, mà không phải tất cả bọn họ đều xấu đâu. Chỉ có dì dượng và thằng anh họ của tôi mới vậy thôi. Ước gì tôi cũng có ba người anh phù thủy như bạn.”
“Horrible — well, not all of them. My aunt and uncle and cousin are, though. Wish I’d had three wizard brothers.”
Ron đính chính:
“Năm người lận.”
Ron nói vậy, nhưng mặt Ron bí xị:
“Mình là đứa thứ sáu trong nhà đi học ở Hogwarts. Bao nhiêu là áp lực đè lên đầu: phải xứng đáng là em của mấy ông anh. Anh Bill và Charlie đã ra trường, anh Bill đứng đầu bên nam sinh, còn anh Charlie là đội trưởng đội bóng Quidditch. Bây giờ anh Percy là huynh trưởng. Anh Fred và anh George thì quậy lắm, nhưng họ cũng luôn đạt điểm cao và ai cũng thích tính tiếu lâm của hai ảnh. Ai cũng mong mình phải giỏi như những ông anh của mình, nhưng nếu có giỏi thì cũng chẳng được tới đâu, vì những việc đó mấy ông kia làm trước rồi. Có tới năm ông anh thì bồ không thể có cái gì mới được. Mình mặc áo dài cũ của anh Bill, xài cây đũa phép cũ của anh Charlie, đến con chuột của mình cũng là con chuột già của anh Percy không thèm chơi nữa.”
“Five,” said Ron. For some reason, he was looking gloomy. “I’m the sixth in our family to go to Hogwarts. You could say I’ve got a lot to live up to. Bill and Charlie have already left — Bill was head boy and Charlie was captain of Quidditch. Now Percy’s a prefect. Fred and George mess around a lot, but they still get really good marks and everyone thinks they’re really funny. Everyone expects me to do as well as the others, but if I do, it’s no big deal, because they did it first. You never get anything new, either, with five brothers. I’ve got Bill’s old robes, Charlie’s old wand, and Percy’s old rat.”
Ron móc trong túi áo khoác ra một con chuột xám mập ú đang ngủ say.
Ron reached inside his jacket and pulled out a fat gray rat, which was asleep.
“Nó tên là Scabbers, vô dụng hết chỗ nói. Hiếm khi thấy nó thức, lúc nào nó cũng ngủ. Anh Percy được ba thưởng cho một con cú vì làm huynh trưởng. Nhưng mà ba má không đủ tiền… Ý mình nói là mình xài đỡ con chuột của anh Percy cũng được.”
“His name’s Scabbers and he’s useless, he hardly ever wakes up. Percy got an owl from my dad for being made a prefect, but they couldn’t aff— I mean, I got Scabbers instead.”
Hai tai của Ron ửng đỏ. Nó nghĩ nó đã nói quá nhiều. Nó bèn quay mặt đi, nhìn chăm chăm ra ngoài cửa sổ.
Ron’s ears went pink. He seemed to think he’d said too much, because he went back to staring out of the window.
Harry lại thấy chẳng có gì đáng xấu hổ nếu người ta không đủ tiền mua một con cú. Nói cho cùng, cả đời nó cũng đâu bao giờ có tiền, cho mãi đến tháng trước. Thế là nó kể cho Ron nghe tất cả về chuyện nó phải mặc quần áo cũ của thằng Dudley và chẳng khi nào có được món quà sinh nhật xứng đáng. Câu chuyện của Harry có vẻ làm cho Ron vui lên.
Harry didn’t think there was anything wrong with not being able to afford an owl. After all, he’d never had any money in his life until a month ago, and he told Ron so, all about having to wear Dudley’s old clothes and never getting proper birthday presents. This seemed to cheer Ron up.
“… mãi cho đến lúc bác Hagrid kể cho tôi nghe, tôi mới biết mình có nòi phù thủy, mới biết về ba má tôi, về lão Voldemort…”
“. . . and until Hagrid told me, I didn’t know anything about be- ing a wizard or about my parents or Voldemort —”
Ron nghe nói tới đó thốt nhiên bụm miệng lại. Harry ngơ ngác hỏi:
“Chuyện gì vậy?”
Ron gasped.
“What?” said Harry.
Ron thì thào, giọng vừa kinh hoàng vừa kính phục:
“Bồ vừa gọi tên cúng cơm của Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đấy. Trời ơi, trong tất cả mọi người tôi nghĩ là chỉ có bồ…”
“You said You-Know-Who’s name!” said Ron, sounding both shocked and impressed. “I’d have thought you, of all people —”
“Ồ, tôi không có định tỏ ra can đảm hay anh hùng khi gọi thẳng tên hắn ra như vậy đâu! Chẳng qua tại tôi không biết là không nên gọi như vậy. Bạn hiểu ý tôi không? Tôi chắc là tôi còn phải học nhiều thứ lắm.”
Rồi Harry nói thêm, giọng lo lắng, về cái điều dạo gần đây làm nó bận tâm nhất:
“Tôi sợ mình đứng chót lớp quá!”
“I’m not trying to be brave or anything, saying the name,” said Harry, “I just never knew you shouldn’t. See what I mean? I’ve got loads to learn. . . . I bet,” he added, voicing for the first time something that had been worrying him a lot lately, “I bet I’m the worst in the class.”
“Không đâu. Có cả đống đứa xuất thân từ những gia đình Muggles mà vẫn học giỏi như thường!” Ron an ủi.
“You won’t be. There’s loads of people who come from Muggle families and they learn quick enough.”
Trong lúc cả hai mãi trò chuyện thì chiếc xe lửa đã đưa họ ra khỏi Luân Đôn. Bây giờ nó đang lao vun vút qua những cánh đồng nhởn nhơ những đàn cừu và bò thong thả gặm cỏ. Cả hai đứa cùng im lặng ngắm cảnh vật lướt nhanh bên ngoài.
While they had been talking, the train had carried them out of London. Now they were speeding past fields full of cows and sheep. They were quiet for a time, watching the fields and lanes flick past.
Khoảng mười hai giờ rưỡi, có tiếng xủng xoẻng bên ngoài hành lang và một bà già má lúm đồng tiền, tươi cười đẩy cửa toa, bước vào hỏi:
“Dùng món gì hở các cháu?”
Around half past twelve there was a great clattering outside in the corridor and a smiling, dimpled woman slid back their door and said, “Anything off the cart, dears?”
Harry, vì chưa ăn sáng nên đứng phắt dậy. Nhưng Ron thì vẫn ngồi im, hai tai lại ửng đỏ, cậu bé lúng búng nói mình có mang theo bánh mì ăn trưa rồi. Harry bước ra ngoài hành lang.
Harry, who hadn’t had any breakfast, leapt to his feet, but Ron’s ears went pink again and he muttered that he’d brought sand- wiches. Harry went out into the corridor.
Hồi ở nhà dượng Dursley, Harry không hề có cắc bạc nào để mua kẹo, nhưng giờ đây túi của nó rủng rỉnh những đồng vàng, đồng bạc, đủ để mua hết đống sôcôla Mars Bars nhiều đến nỗi nó ôm không xuể. Nhưng cái bà tươi cười này không bán Mars Bars. Bà chỉ có kẹo dẻo các vị, hiệu Bertie Bott, kẹo cao su thượng hạng hiệu Drooble, sôcôla Ếch nhái, bánh bí ngô, bánh bông lang, kẹo que cam thảo, và nhiều thứ lạ lùng khác mà Harry chưa từng thấy bao giờ. Harry muốn biết hết các món, nó mua mỗi thứ một ít, và chỉ phải trả cho bà bán hàng có mười một đồng bạc Sickle và bảy đồng xu Knuts.
He had never had any money for candy with the Dursleys, and now that he had pockets rattling with gold and silver he was ready to buy as many Mars Bars as he could carry — but the woman didn’t have Mars Bars. What she did have were Bertie Bott’s Every Flavor Beans, Drooble’s Best Blowing Gum, Chocolate Frogs, Pumpkin Pasties, Cauldron Cakes, Licorice Wands, and a number of other strange things Harry had never seen in his life. Not want- ing to miss anything, he got some of everything and paid the woman eleven silver Sickles and seven bronze Knuts.
Khi Harry bưng tất cả vô toa, trút cả đống xuống ghế ngồi thì Ron tròn mắt nhìn:
“Bồ đói lắm hả?”
“Đói muốn chết.”
Harry vừa đáp vừa ngoạm một miếng bánh bí ngô to đầy miệng.
Ron stared as Harry brought it all back in to the compartment and tipped it onto an empty seat.
“Hungry, are you?”
“Starving,” said Harry, taking a large bite out of a pumpkin pasty.
Trong lúc đó Ron móc trong túi áo ra một cái gói lùm lùm và bắt đầu mở. Bên trong có bốn miếng bánh mì. Nó gỡ một miếng ra và nói:
“Má cứ quên là mình không thích thịt bò muối.”
Ron had taken out a lumpy package and unwrapped it. There were four sandwiches inside. He pulled one of them apart and said, “She always forgets I don’t like corned beef.”
Harry cầm một miếng bánh đưa cho Ron mời:
“Đổi cho bồ miếng này! Thử đi…”
“Swap you for one of these,” said Harry, holding up a pasty. “Go on —”
Ron ngó miếng bánh của mình nói:
“Bồ không ăn được món này đâu! Khô queo hà! Má mình làm vội…”
Rồi Ron nói nhanh lúng búng:
“Tại có tới năm đứa mà!”
“You don’t want this, it’s all dry,” said Ron. “She hasn’t got much time,” he added quickly, “you know, with five of us.”
Harry trước đây chưa từng có cái gì để mời người khác, nay thiệt tình muốn chia sẻ với bạn đồng hành.
“Ăn bánh này đi, ăn đi mà.”
Thật là một cảm giác sung sướng dễ chịu được ngồi với Ron, cùng ăn hết cái bánh của Harry, hết cả bánh ngọt, hết cả kẹo (chỉ có mấy miếng bánh mì kẹp thịt khô là bị chừa lại).
“Go on, have a pasty,” said Harry, who had never had any- thing to share before or, indeed, anyone to share it with. It was a nice feeling, sitting there with Ron, eating their way through all Harry’s pasties, cakes, and candies (the sandwiches lay for- gotten).
Cầm một mớ sôcôla Ếch nhái, Harry hỏi Ron:
“Cái gì đây? Đâu phải ếch nhái thiệt hả?”
Nó đã bắt đầu thấy bớt ngạc nhiên trước mọi việc.
“What are these?” Harry asked Ron, holding up a pack of Chocolate Frogs. “They’re not really frogs, are they?” He was start- ing to feel that nothing would surprise him.
Ron đáp:
“Không. Nhưng để coi cái thẻ bên trong là gì? Mình còn thiếu Agrippa.”
“Là cái gì?”
“No,” said Ron. “But see what the card is. I’m missing Agrippa.” “What?”
“Ờ, phải, bồ đâu biết hả? Mỗi gói sôcôla ếch nhái có giấu bên trong một tấm thẻ để người ta sưu tầm chơi. Thẻ có hình của những phù thủy nổi tiếng ấy mà. Mình sưu tầm được chừng năm trăm cái, nhưng còn thiếu Agrippa và Ptolemy.”
“Oh, of course, you wouldn’t know — Chocolate Frogs have cards inside them, you know, to collect — famous witches and wizards. I’ve got about five hundred, but I haven’t got Agrippa or Ptolemy.”
Harry mở bao sôcôla ếch của mình, rút ra một cái thẻ. Trên thẻ có hình của một người đàn ông. Ông đeo một cặp kiếng hình bán nguyệt, có cái mũi dài khoằm, râu tóc dài bạc trắng xõa xuống như thác đổ. Phía dưới chân dung ông có ghi tên: Albus Dumbledore.
Harry unwrapped his Chocolate Frog and picked up the card. It showed a man’s face. He wore half-moon glasses, had a long, crooked nose, and flowing silver hair, beard, and mustache. Under- neath the picture was the name Albus Dumbledore.
Harry nói:
“Vậy ra đây là cụ Dumbledore!”
“So this is Dumbledore!” said Harry.
Ron nói:
“Phải rồi! Đừng có nói với mình là bồ chưa hề nghe đến cụ Dumbledore đấy! Cho mình một con nhái đi, biết đâu trong đó có thẻ Agrippa… Cám ơn bồ…”
“Don’t tell me you’d never heard of Dumbledore!” said Ron. “Can I have a frog? I might get Agrippa — thanks —”
Harry lật tấm thẻ lại, đọc ở mặt sau:
Harry turned over his card and read:
ALBUS DUMBLEDORE
Đương kim hiệu trưởng của Hogwarts
Được coi là phù thủy vĩ đại nhất của thời hiện đại, Dumbledore đặc biệt nổi tiếng nhờ đã chiến thắng phù thủy phe hắc ám Grindelwald vào năm 1945; nhờ khám phá ra mười hai công dụng của máu rồng, cùng công trình của ông với cộng sự Nicolas Flamel về thuật giả kim. Giáo sư Dumbledore thích nhạc thính phòng và trò chơi ném ki mười chai.
ALBUS DUMBLEDORE
currently headmaster of Hogwarts
Considered by many the greatest wizard of modern times, Dumbledore is particularly famous for his defeat of the Dark wizard Grindelwald in 1945, for the discovery of the twelve uses of dragon’s blood, and his work on alchemy with his partner, Nicolas Flamel. Professor Dumbledore enjoys chamber music and tenpin bowling.
Harry lật lại trước mặt tấm thẻ, vô cùng kinh ngạc khi thấy chân dung cụ Dumbledore đã biến mất.
Harry turned the card back over and saw, to his astonishment, that Dumbledore’s face had disappeared.
“Ối, cụ đi mất rồi!”
“He’s gone!”
“Chứ sao! Chứ bồ nghĩ cụ rãnh mà ngồi lê la với mình cả ngày ở đây à?” Ron nói.
“Nhưng cụ sẽ quay về thôi… Ối, chán quá, lại thẻ Morgana nữa rồi. Mình đã có tới sáu bà Morgana! Bồ có muốn giữ tấm thẻ này không? Bồ có thể bắt đầu sưu tầm thẻ từ bây giờ.”
“Well, you can’t expect him to hang around all day,” said Ron. “He’ll be back. No, I’ve got Morgana again and I’ve got about six of her . . . do you want it? You can start collecting.”
Ánh mắt của Ron không rời được mớ sôcôla ếch nhái chưa mở bao bì.
“Cứ tự nhiên.” Harry mời. “Nhưng mà bạn biết không, ở thế giới Muggles, chụp hình rồi là người ta ở yên trong hình.”
Ron’s eyes strayed to the pile of Chocolate Frogs waiting to be unwrapped.
“Help yourself,” said Harry. “But in, you know, the Muggle world, people just stay put in photos.”
“Thiệt hả? Họ không nhúc nhích gì sao?” Ron tỏ ra rất ngạc nhiên. “Kỳ quái thiệt!”
“Do they? What, they don’t move at all?” Ron sounded amazed. “Weird !”
Harry đăm đăm nhìn tấm thẻ. Nó thấy cụ Dumbledore đang khép nép bước trở lại vào tấm thẻ và mỉm cười với nó. Ron thì xem ra khoái ăn sôcôla ếch nhái hơn là ngắm nhìn những ông bà phù thủy lừng danh, nhưng Harry thì không sao rời mắt khỏi họ được.
Harry stared as Dumbledore sidled back into the picture on his card and gave him a small smile. Ron was more interested in eating the frogs than looking at the Famous Witches and Wizards cards, but Harry couldn’t keep his eyes off them.
Chẳng mấy chốc nó không chỉ sưu tầm được chân dung cụ Dumbledore và bà Morgana, mà có cả ngài Hengist xứ Woodcroft, Alberic Grunnion, Circe, Paracelsus, và Merlin. Cuối cùng là bà tu sĩ cổ giáo Ái Nhĩ Lan Cliodna đang gãi mũi. Một hồi sau, Harry thôi không xem bà gãi mũi trên hình nữa, chuyển sang mở mấy gói kẹo dẻo hình hạt đậu đủ vị, hiệu Bertie Bott.
Soon he had not only Dumbledore and Morgana, but Hengist of Woodcraft, Alberic Grunnion, Circe, Paracelsus, and Merlin. He finally tore his eyes away from the druidess Cliodna, who was scratching her nose, to open a bag of Bertie Bott’s Every Flavor Beans.
Ron nhắc nhở Harry:
“Phải cẩn thận với mấy món này đấy! Khi họ nói là đủ vị thì có nghĩa là đủ các vị. Bồ biết, đủ các thứ vị có từ vị sôcôla, vị bạc hà, vị mứt, nhưng cũng có vị rau dấp cá, vị thận heo, vị lòng bò. Anh George có lần bị tẩu hỏa nhập ma vì các vị đó rồi!”
“You want to be careful with those,” Ron warned Harry. “When they say every flavor, they mean every flavor — you know, you get all the ordinary ones like chocolate and peppermint and mar- malade, but then you can get spinach and liver and tripe. George reckons he had a booger-flavored one once.”
Ron nhón một viên kẹo hình hột đậu xanh, nhìn ngắm cẩn thận, rồi phun vô một góc.
“Ẹ! Đắng nghét! Vị rễ non.”
Ron picked up a green bean, looked at it carefully, and bit into a corner.
“Bleaaargh — see? Sprouts.”
Nhưng cuối cùng cả hai cũng thích thú nhấm nháp sạch món kẹo dẻo các vị. Harry nếm được vị bánh nướng, dừa, đậu nướng, dâu, cà ri, cỏ, cà phê, cá mòi, và còn nhấm thử một tí kẹo xám trông rất buồn cười mà Ron chẳng hề đụng đến. Cái đó hóa ra có vị cay như tiêu.
They had a good time eating the Every Flavor Beans. Harry got toast, coconut, baked bean, strawberry, curry, grass, coffee, sardine, and was even brave enough to nibble the end off a funny gray one Ron wouldn’t touch, which turned out to be pepper.
Qua cửa sổ toa xe, phong cảnh nông thôn ngày càng trải rộng. Giờ thì không còn thấy những thửa ruộng ngăn nắp nữa. Thay vào đấy là những cánh rừng hoang vu, những dòng sông uốn khúc, và những đồi núi xanh sẫm.
The countryside now flying past the window was becoming wilder. The neat fields had gone. Now there were woods, twisting rivers, and dark green hills.
Có tiếng gõ cửa và thằng bé có gương mặt tròn mà Harry đã gặp ở sân ga Chín-ba-phần-tư bước vào. Trông nó như mếu.
There was a knock on the door of their compartment and the round-faced boy Harry had passed on platform nine and three- quarters came in. He looked tearful.
Nó hỏi:
“Xin lỗi, có ai thấy con cóc của tôi không?”
“Sorry,” he said, “but have you seen a toad at all?”
Khi cả Harry và Ron đều lắc đầu thì thằng bé kêu lên tuyệt vọng:
“Tôi lại làm mất nó rồi. Nó cứ bỏ tôi mà đi hoài à!”
When they shook their heads, he wailed, “I’ve lost him! He keeps getting away from me!”
Harry an ủi:
“Nó sẽ trở về mà.”
“He’ll turn up,” said Harry.
Thằng bé rầu rĩ nói:
“Vâng… Nhưng các bạn có thấy nó…” Nói đến đó thằng bé bỏ đi.
“Yes,” said the boy miserably. “Well, if you see him . . .” He left.
Ron nói:
“Không biết tại sao nó lại khổ sở như vậy nhỉ? Nếu mình mà có một con cóc thì mình chỉ mong mất nó cho rồi, càng sớm càng tốt. Ôi nhưng mà…, cũng chẳng nói được, mình cũng có con Scabbers tội nợ đấy thôi!”
“Don’t know why he’s so bothered,” said Ron. “If I’d brought a toad I’d lose it as quick as I could. Mind you, I brought Scabbers, so I can’t talk.”
Con chuột vẫn ngủ li bì trên đùi Ron. Ron nhìn nó chán ghét.
“Không chừng nó chết rồi, mà chết hay không thì cũng chẳng phân biệt được. Hôm qua mình đã thử đổi nó sang màu vàng để cho nó coi đỡ chán, nhưng niệm thần chú hoài mà không được. Để mình chỉ cho bồ xem, coi nè…”
The rat was still snoozing on Ron’s lap.
“He might have died and you wouldn’t know the difference,” said Ron in disgust. “I tried to turn him yellow yesterday to make him more interesting, but the spell didn’t work. I’ll show you, look . . .”
Ron lục lọi trong rương, lấy ra một cái đũa phép, trông te tua, mẻ đầu mẻ đuôi, đầu đũa lại dính phất phơ cái gì trắng trắng.
He rummaged around in his trunk and pulled out a very battered-looking wand. It was chipped in places and something white was glinting at the end.
“Lông bạch kỳ mã gần bong ra rồi. Nhưng còn xài được…”
“Unicorn hair’s nearly poking out. Anyway —”
Ron vừa vẩy đũa phép một cái thì cửa toa lại mở. Thằng bé mất cóc lại bước vào, nhưng lần này đi cùng nó là một đứa con gái.
He had just raised his wand when the compartment door slid open again. The toadless boy was back, but this time he had a girl with him.
Cô bé mặc đồng phục Hogwarts mới toanh, cất tiếng hỏi:
“Có ai thấy một con cóc không? Neville mất một con cóc.”
She was already wearing her new Hogwarts robes.
“Has anyone seen a toad? Neville’s lost one,” she said.
Giọng cô bé oai như giọng bà chủ. Tóc nâu dày xù, lại thêm mấy cái răng cửa to cồ cộ.
She had a bossy sort of voice, lots of bushy brown hair, and rather large front teeth.
Ron nói:
“Hồi nãy tụi này đã nói với nó là không thấy rồi.”
Nhưng cô bé không thèm nghe, chỉ nhìn chăm chú cây đũa phép trên tay Ron.
“We’ve already told him we haven’t seen it,” said Ron, but the girl wasn’t listening, she was looking at the wand in his hand.
“A, đang làm phép hả? Coi nào!”
Cô bé ngồi xuống. Ron hơi bị chựng lại:
“Ờ… được thôi.”
“Oh, are you doing magic? Let’s see it, then.”
She sat down. Ron looked taken aback.
“Er — all right.”
Nó tằng hắng đọc thần chú:
He cleared his throat.
Nắng trời, mật bơ, hoa cúc
Có con chuột ngu béo núc
Hãy biến nó ra màu vàng
“Sunshine, daisies, butter mellow,
Turn this stupid, fat rat yellow.”
Ron vẫy cây đũa phép, nhưng không có gì xảy ra. Con Scabbers vẫn màu xám ngoét và tiếp tục ngủ li bì.
He waved his wand, but nothing happened. Scabbers stayed gray and fast asleep.
Cô bé nói: “Bạn có chắc đó là câu thần chú thiệt không? Không ăn thua rồi chứ gì? Hồi trước tôi cũng có mấy câu, để thực tập ấy mà! Mà câu nào cũng linh nghiệm hết. Ở nhà tôi, không ai biết làm phép, thành ra lúc nhận thư gọi nhập học tôi ngạc nhiên quá chừng. Nhưng mà tất nhiên là tôi thích lắm, vì tôi nghe nói đây là trường phù thủy danh tiếng nhất. Tôi đã học thuộc lòng hết các sách giáo khoa rồi. Hy vọng như vậy là đủ theo học. Nhân tiện xin tự giới thiệu, tôi là Hermione Granger, các bạn là ai?”
“Are you sure that’s a real spell?” said the girl. “Well, it’s not very good, is it? I’ve tried a few simple spells just for practice and it’s all worked for me. Nobody in my family’s magic at all, it was ever such a surprise when I got my letter, but I was ever so pleased, of course, I mean, it’s the very best school of witchcraft there is, I’ve heard — I’ve learned all our course books by heart, of course, I just hope it will be enough — I’m Hermione Granger, by the way, who are you?”
Con nhỏ nói tía lia rồi ngừng lại chờ đợi.
She said all this very fast.
Harry nhìn Ron cảm giác nhẹ cả người khi thấy mặt Ron thộn ra, chứng tỏ cu cậu cũng không học thuộc lòng hết mọi cuốn sách trong chương trình học.
Harry looked at Ron, and was relieved to see by his stunned face that he hadn’t learned all the course books by heart either.
Ron lầm bầm:
“Tôi là Ron Weasley.”
Harry nói:
“Tôi là Harry Potter.”
“I’m Ron Weasley,” Ron muttered.
“Harry Potter,” said Harry.
Hermione kêu lên:
“Thật hả? Tôi biết hết mọi chuyện về bạn, dĩ nhiên rồi! Tôi kiếm được vài cuốn sách đọc thêm, chuyện về bạn có ghi trong cuốn Lịch sử pháp thuật hiện đại, cuốn Thăng trầm của nghệ thuật Hắc ám và cuốn Những sự kiện phù phép lớn trong thế kỷ hai mươi.”
“Are you really?” said Hermione. “I know all about you, of course — I got a few extra books for background reading, and you’re in Modern Magical History and The Rise and Fall of the Dark Arts and Great Wizarding Events of the Twentieth Century.”
Harry cảm thấy bàng hoàng cả người:
“Tôi ấy hả?”
“Am I?” said Harry, feeling dazed.
Hermione lại kêu lên:
“Trời đất! Bạn không biết gì hết sao? Nếu như tôi là bạn, thể nào tôi cũng phải tìm đọc tất cả những gì viết về tôi.”
“Goodness, didn’t you know, I’d have found out everything I could if it was me,” said Hermione.
Thế rồi đột ngột cô bé chuyển giọng:
“À, mà có ai biết mình sẽ ở ký túc xá nào chưa? Tôi đã dọ hỏi cùng khắp rồi, nghe nói nhà Gryffindor là chỗ tốt nhất, tôi hy vọng được vô đó. Nghe nói chính cụ Dumbledore cũng từng ở Gryffindor. Nhưng mà nhà Ravenclaw cũng không đến nỗi tệ… Thôi, bây giờ tụi tôi phải đi tìm con cóc cho Neville đã. Còn hai bạn, thay đồ đi là vừa, sắp tới nơi rồi, biết không?”
“Do either of you know what House you’ll be in? I’ve been asking around, and I hope I’m in Gryffindor, it sounds by far the best; I hear Dumbledore himself was in it, but I suppose Ravenclaw wouldn’t be too bad… Any-way, we’d better go and look for Neville’s toad. You two had better change, you know, I expect we’ll be there soon.”
Cô bé nói rồi bỏ đi dắt theo thằng nhóc mất cóc.
And she left, taking the toadless boy with her.
“Cho dù mình ở nhà nào cũng được, miễn là đừng chung nhà với con nhỏ đó.”
“Whatever House I’m in, I hope she’s not in it,” said Ron.
Ron nói. Nó quăng cây đũa phép vô rương, làu bàu:
“Câu thần chú ngu si! Chắc là anh George ghẹo mình, ảnh biết đó là trò bịp nên ảnh mới dạy mình.”
He threw his wand back into his trunk. “Stupid spell — George gave it to me, bet he knew it was a dud.”
Harry hỏi:
“Mấy anh của bạn ở ký túc xá nào?”
“What House are your brothers in?” asked Harry.
Ron nói, vẻ mặt tối sầm lại:
“Gryffindor. Ba má mình cũng từng ở nhà đó. Nếu mình không được chọn vô nhà đó thì không biết ba má mình sẽ nói sao nữa. Mình nghĩ nhà Ravenclaw không đến nỗi nào, nhưng mà thử tưởng tượng coi, nếu mình mà bị cho vô nhà Slytherin thì chết mất!”
“Gryffindor,” said Ron. Gloom seemed to be settling on him again. “Mom and Dad were in it, too. I don’t know what they’ll say if I’m not. I don’t suppose Ravenclaw would be too bad, but imag- ine if they put me in Slytherin.”
“Có phải đó là nơi mà Vol – Xí quên, Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đấy, từng ở không?”
“That’s the House Vol-, I mean, You-Know-Who was in?”
“Đúng rồi.”
Ron đáp, nó ngồi phịch xuống ghế, mặt mày lo âu căng thẳng.
“Yeah,” said Ron. He flopped back into his seat, looking de-pressed.
Harry muốn Ron quên vụ ký túc xá đi, nó tìm cách nói chuyện khác:
“Bạn biết không, tôi thấy mấy chóp râu con Scabbers hình như có hơi trắng ra một chút… Thế hai người anh lớn của bạn ra trường rồi làm gì?”
“You know, I think the ends of Scabbers’ whiskers are a bit lighter,” said Harry, trying to take Ron’s mind off Houses. “So what do your oldest brothers do now that they’ve left, anyway?”
Harry đang thắc mắc một phù thủy học hành xong thì làm gì. Ron đáp:
“Anh Charlie thì đi Rumani nghiên cứu về rồng, còn anh Bill thì đến châu Phi làm gì đó cho nhà băng Gringotts. À, bồ có nghe nói về Gringotts không? Tin đăng đầy trên tờ Nhật báo Tiên tri ấy. Nhưng chắc là ở nhà dân Muggles không có báo đó cho bạn đọc. Báo nói hôm rồi có kẻ tính cướp hầm bạc.”
Harry was wondering what a wizard did once he’d finished school.
“Charlie’s in Romania studying dragons, and Bill’s in Africa do- ing something for Gringotts,” said Ron. “Did you hear about Gringotts? It’s been all over the Daily Prophet, but I don’t suppose you get that with the Muggles — someone tried to rob a high se- curity vault.”
Harry sửng sốt.
“Thiệt hả? Rồi sao nữa?”
Harry stared.
“Really? What happened to them?”
“Không sao cả, chính vì vậy tin tức mới giật gân. Chưa bắt được tụi cướp. Ba mình nói chắc lại là một tay phù thủy ghê gớm của phe Hắc ám dính líu trong vụ Gringotts này. Nhưng kỳ quặc nhất là tụi cướp vào mà không lấy gì. Ai cũng sờ sợ, không biết Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đấy có đứng sau mấy chuyện như vậy không.”
“Nothing, that’s why it’s such big news. They haven’t been caught. My dad says it must’ve been a powerful Dark wizard to get round Gringotts, but they don’t think they took anything, that’s what’s odd. ’Course, everyone gets scared when something like this happens in case You-Know-Who’s behind it.”
Harry suy nghĩ mãi về cái tin cướp nhà băng Gringotts. Nó bắt đầu cảm thấy hơi ớn khi nghe nói đến tên Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đấy. Nó thấy hình như bước vào thế giới phù thủy là ai cũng có cảm giác sợ hãi đó. Nhưng phải như được nhắc đến tên Voldemort mà không kèm theo sợ hãi thì dễ chịu hơn biết bao nhiêu.
Harry turned this news over in his mind. He was starting to get a prickle of fear every time You-Know-Who was mentioned. He supposed this was all part of entering the magical world, but it had been a lot more comfortable saying “Voldemort” without worrying.
Ron hỏi:
“Bồ chơi cho đội bóng Quidditch nào?”
“What’s your Quidditch team?” Ron asked.
“Ơ… tôi có biết gì đâu…”
Câu thú nhận này của Harry làm cho Ron kinh ngạc:
“Cái gì? Để rồi bồ coi, đó là trò thể thao hay nhất thế giới.”
“Er — I don’t know any,” Harry confessed.
“What!” Ron looked dumbfounded. “Oh, you wait, it’s the best game in the world —”
Và Ron ra sức giải thích về bốn trái banh, về vị trí bảy cầu thủ, thuật lại những trận đấu nổi tiếng mà nó từng đi xem với các anh nó. Ron còn nói về những cán chổi thần mà nó ao ước mua được nếu một ngày kia rủng rẻng tiền. Đang dẫn giải tới những điều tinh vi hơn của trò chơi cho Harry nghe thì cánh cửa toa xe lại mở ra, nhưng lần này không phải thằng bé mất cóc hay con bé Hermione lách chách nữa.
And he was off, explaining all about the four balls and the positions of the seven players, describing famous games he’d been to with his brothers and the broomstick he’d like to get if he had the money. He was just taking Harry through the finer points of the game when the compartment door slid open yet again, but it wasn’t Neville the toadless boy, or Hermione Granger this time.
Bước vào lần này là ba thằng bé khác, Harry nhận ra ngay đứa đi giữa là thằng bé nhợt nhạt nó đã gặp ở tiệm quần áo của bà Malkin trong khu Hẻm Xéo. Thằng bé nhìn Harry có vẻ hứng thú hơn lần gặp gỡ trước.
Three boys entered, and Harry recognized the middle one at once: It was the pale boy from Madam Malkin’s robe shop. He was looking at Harry with a lot more interest than he’d shown back in Diagon Alley.
Nó hỏi:
“Đúng không đây? Tụi nó nói um khắp tàu là có Harry Potter đang ở trong toa này. Vậy ra là mày đó hả?”
“Is it true?” he said. “They’re saying all down the train that Harry Potter’s in this compartment. So it’s you, is it?”
“Phải.”
Harry nói và nhìn hai đứa đi cùng. Cả hai trông chắc nịch và hung tợn. Tụi nó đứng hai bên thằng bé nhợt nhạt trông như là vệ sĩ.
“Yes,” said Harry. He was looking at the other boys. Both of them were thickset and looked extremely mean. Standing on either side of the pale boy, they looked like bodyguards.
Thấy Harry nhìn hai đứa kia, thằng bé nhợt nhạt hờ hững giới thiệu:
“À, đây là Crabbe, còn đây là Goyle. Tao là Malfoy, Draco Malfoy.”
“Oh, this is Crabbe and this is Goyle,” said the pale boy care- lessly, noticing where Harry was looking. “And my names Malfoy, Draco Malfoy.”
Ron ho khẽ mấy tiếng, chắc là để ém tiếng cười khẩy. Draco Malfoy ngó Ron:
“Bộ thấy tên tao buồn cười lắm hả? Tên mày tao chưa thèm hỏi nha! Ba tao đã nói cho tao biết hết về tụi tóc đỏ Weasley nhà mày rồi, mặt đầy tàn nhang, con thì đông đến nỗi nuôi không xuể chứ gì!”
Ron gave a slight cough, which might have been hiding a snig- ger. Draco Malfoy looked at him.
“Think my name’s funny, do you? No need to ask who you are. My father told me all the Weasleys have red hair, freckles, and more children than they can afford.”
Nó quay lại Harry:
“Potter à, rồi mày sẽ thấy là có những gia đình phù thủy sang hơn. Mày đừng vội kết bạn với đám tầm thường. Chuyện đó tao giúp mày được.”
He turned back to Harry. “You’ll soon find out some wizarding families are much better than others, Potter. You don’t want to go making friends with the wrong sort. I can help you there.”
Nó giơ tay để bắt tay Harry, nhưng Harry không thèm nắm lấy. Harry chỉ lạnh nhạt nói:
“Cám ơn. Tao nghĩ tự tao cũng biết được đứa nào tầm thường, đứa nào không rồi!”
He held out his hand to shake Harry’s, but Harry didn’t take it. “I think I can tell who the wrong sort are for myself, thanks,” he said coolly.
Nghe đến đó. Draco Malfoy không đến nỗi đỏ mặt, nhưng hai gò má nó cũng hơi đổi màu. Nó chậm rãi nói:
“Nếu tao là mày, Potter, tao sẽ cẩn thận hơn một chút. Mày rồi sẽ đi vào vết xe đổ của ba má mày nếu không biết lễ phép hơn. Tại ba má mày hồi đó cũng không biết điều gì là tốt cho họ. Mày mà cứ giao du với đám giẻ rách như bọn Weasley và lão Hagrid ấy thì có ngày cũng tiêu ma.”
Draco Malfoy didn’t go red, but a pink tinge appeared in his pale cheeks.
“I’d be careful if I were you, Potter,” he said slowly. “Unless you’re a bit politer you’ll go the same way as your parents. They didn’t know what was good for them, either. You hang around with riffraff like the Weasleys and that Hagrid, and it’ll rub off on you.”
Cả Harry và Ron cùng đứng bật dậy. Mặt Ron đỏ ké như tóc trên đầu của nó.
“Mày nói lại coi!”
Both Harry and Ron stood up. “Say that again,” Ron said, his face as red as his hair.
Draco Malfoy khịt mũi nhạo báng:
“Chà muốn đánh lộn với tụi tao hả?”
Both Harry and Ron stood up.
“Oh, you’re going to fight us, are you?” Malfoy sneered.
“Ừ, nếu mày không cút ra khỏi chỗ này ngay.”
Harry nói, giọng can đảm nhưng trong lòng cũng có hơi run vì Crabbe và Goyle đều bự hơn nó và Ron rất nhiều.
“Unless you get out now,” said Harry, more bravely than he felt, because Crabbe and Goyle were a lot bigger than him or Ron.
“Nhưng mà tụi tao chưa muốn đi ra, phải không tụi bây? Tụi tao ăn hết đồ của tụi tao rồi, mà tụi mày ở đây có vẻ còn dư đồ ăn đấy.”
“But we don’t feel like leaving, do we, boys? We’ve eaten all our food and you still seem to have some.”
Goyle thò tay định lấy mấy gói sôcôla Ếch nhái bên cạnh Ron. Ron nhảy tới trước, nhưng trước khi nó chụp được Goyle thì thằng này đã rú lên một tiếng đau đớn:
Goyle reached toward the Chocolate Frogs next to Ron — Ron leapt forward, but before he’d so much as touched Goyle, Goyle let out a horrible yell.
con chuột Scabbers đang đeo lủng lẳng nơi đầu ngón tay thằng Goyle, mấy chiếc răng chuột nhọn hoắt cắm sâu vào da thịt Goyle. Goyle la hét, vung vẫy con chuột vòng vòng, nhưng con chuột vẫn không chịu nhả ra. Cuối cùng, khi con chuột văng ra và bay tới cửa sổ thì cả Crabbe và Malfoy đều hoảng hốt nhảy thối lui. Cả ba thằng lập tức biến mất.
Scabbers the rat was hanging off his finger, sharp little teeth sunk deep into Goyle’s knuckle — Crabbe and Malfoy backed away as Goyle swung Scabbers round and round, howling, and when Scab- bers finally flew off and hit the window, all three of them disap- peared at once.
Chắc chúng tưởng có cả bầy chuột đang chờ sẵn trong mớ kẹo, hay có lẽ chúng nghe có tiếng bước chân, vì ngay sau đó cô bé Hermione bước vào.
Perhaps they thought there were more rats lurking among the sweets, or perhaps they’d heard footsteps, because a sec- ond later, Hermione Granger had come in.
“Có chuyện gì vừa xảy ra ở đây vậy?”
Cô nàng vừa hỏi vừa đưa mắt nhìn những gói kẹo vung vãi khắp sàn và Ron đang nhón đuôi con chuột Scabbers kéo lên.
“What has been going on?” she said, looking at the sweets all over the floor and Ron picking up Scabbers by his tail.
“Chắc nó tiêu rồi quá!”
Ron nói với Harry. Nó nhìn kỹ lại con chuột.
“Ủa, không… thật không tin được, nó lại ngủ nữa rồi nè!”
“I think he’s been knocked out,” Ron said to Harry. He looked closer at Scabbers. “No — I don’t believe it — he’s gone back to sleep.”
Đúng là con chuột đang ngủ li bì.
And so he had.
Ron hỏi:
“Hồi trước bồ có quen Draco Malfoy hả?”
Harry giải thích vắn tắt cuộc gặp gỡ ở Hẻm Xéo.
“You’ve met Malfoy before?”
Harry explained about their meeting in Diagon Alley.
Ron nghe xong bảo:
“Mình có nghe nói về gia đình nó. Họ là những người đầu tiên quay về phe ta sau khi Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đấy biến mất. Họ nói họ bị bùa mê. Ba mình không tin. Ba mình nói cha thằng Malfoy đúng ra không nên thanh minh này nọ về chuyện đã theo phe hắc ám.”
“I’ve heard of his family,” said Ron darkly. “They were some of the first to come back to our side after You-Know-Who disap- peared. Said they’d been bewitched. My dad doesn’t believe it. He says Malfoy’s father didn’t need an excuse to go over to the Dark Side.”
Quay về phía Hermione, Ron hỏi:
“Còn bạn, bạn cần gì?”
He turned to Hermione. “Can we help you with some- thing?”
“Mấy bạn nên thay đồng phục vào nhanh nhanh đi. Tôi vừa mới đi lên mấy toa đầu và hỏi nhân viên kiểm soát tàu, ông ấy nói chúng ta gần đến nơi rồi. Bộ các bạn vừa đánh nhau hả? Coi chừng gặp chuyện lôi thôi trước khi đến nơi đó.”
“You’d better hurry up and put your robes on, I’ve just been up to the front to ask the conductor, and he says we’re nearly there. You haven’t been fighting, have you? You’ll be in trouble before we even get there!”
Ron quắc mắt nhìn Hermione:
“Con Scabbers đánh nhau chứ không phải chúng tôi. Bạn có thể làm ơn đi ra cho chúng tôi thay đồ được không?”
“Scabbers has been fighting, not us,” said Ron, scowling at her. “Would you mind leaving while we change?”
“Được thôi. Tôi vô đây chẳng qua vì ở ngoài kia người ta chộn rộn như con nít, chạy lên chạy xuống khắp hành lang. À, nhân tiện tôi xin lưu ý bạn là mũi bạn dính lọ nghẹ đó, bạn biết không?”
“All right — I only came in here because people outside are be- having very childishly, racing up and down the corridors,” said Hermione in a sniffy voice. “And you’ve got dirt on your nose, by the way, did you know?”
Ron trừng mắt nhìn theo cô bé khi cô đi ra ngoài. Harry thò đầu ra ngoài cửa sổ. Trời đang tối dần. Nó có thể nhìn thấy núi rừng dưới bầu trời tím thẫm. Đoàn tàu lửa dường như đang chạy chậm lại.
Ron glared at her as she left. Harry peered out of the window. It was getting dark. He could see mountains and forests under a deep purple sky. The train did seem to be slowing down.
Harry và Ron cùng cởi chiếc áo khoác ra và trùm lên mình chiếc áo dài đen. Áo của Ron hơi ngắn một chút so với thân hình nó, để lộ cả đôi giày. Một giọng nói vang lên khắp đoàn tàu: Chúng ta sắp đến Hogwarts trong vòng năm phút nữa. Hành lý cứ để lại trên tàu, sẽ có người mang về trường sau.
He and Ron took off their jackets and pulled on their long black robes. Ron’s were a bit short for him, you could see his sneakers un- derneath them.
A voice echoed through the train: “We will be reaching Hog- warts in five minutes’ time. Please leave your luggage on the train, it will be taken to the school separately.”
Bụng dạ Harry nôn nao vì hồi hộp. Ron cũng vậy, dưới lớp tàn nhang, mặt nó tái nhợt. Hai đứa nhét đầy túi những gói kẹo cuối cùng rồi nhập vào đám đông trong hành lang tàu.
Harry’s stomach lurched with nerves and Ron, he saw, looked pale under his freckles. They crammed their pockets with the last of the sweets and joined the crowd thronging the corridor.
Đoàn xe lửa giảm tốc độ rồi cuối cùng dừng hẳn lại. Người ta xô đẩy nhau, ùn ra cửa, đổ xuống một sân ga nhỏ xíu, tối tăm. Harry rùng mình trong trời đêm lạnh buốt. Chợt lúc ấy, một bóng đèn nhấp nháy lơ lửng trên đầu lũ học sinh, và Harry nghe một giọng nói quen thuộc:
“Học sinh năm thứ nhất! Năm thứ nhất lại đây! Harry, khỏe không?”
The train slowed right down and finally stopped. People pushed their way toward the door and out on to a tiny, dark platform. Harry shivered in the cold night air. Then a lamp came bobbing over the heads of the students, and Harry heard a familiar voice: “Firs’ years! Firs’ years over here! All right there, Harry?”
Gương mặt lông lá của lão Hagrid hớn hở trên biển đầu người.
“Lại đây, đi theo ta! Còn học sinh năm thứ nhất nữa không? Bước cẩn thận! Học sinh năm thứ nhất, theo ta.”
Hagrid’s big hairy face beamed over the sea of heads.
“C’mon, follow me — any more firs’ years? Mind yer step, now! Firs’ years follow me!”
Mò mẫm, loạng choạng, bọn trẻ đi theo Hagrid xuống một lối đi có vẻ dốc và hẹp. Hai bên đường tối đến nỗi Harry nghĩ là mình đang đi giữa những hàng cây dày đặc. Cả đám im thin thít. Neville – thằng nhỏ làm mất cóc, chỉ dám thút thít một hai lần.
Slipping and stumbling, they followed Hagrid down what seemed to be a steep, narrow path. It was so dark on either side of them that Harry thought there must be thick trees there. Nobody spoke much. Neville, the boy who kept losing his toad, sniffed once or twice.
Hagrid ngoái đầu ra sau, nói:
“Chút xíu nữa là các trò sẽ nhìn thấy Hogwarts lần đầu tiên đấy! Qua khúc quanh này là thấy ngay.”
“Yeh’ll get yer firs’ sight o’ Hogwarts in a sec,” Hagrid called over his shoulder, “jus’ round this bend here.”
Một tiếng ‘Ồ’ rất to đồng thanh vang lên.
There was a loud “Oooooh!”
Con đường hẹp bất ngờ mở ra một bờ hồ đen bao la. Bên kia bờ hồ, nằm trên đỉnh núi cao là một tòa lâu đài nguy nga đồ sộ với vô số tháp lớn nhỏ, và vô vàn ô cửa sổ sáng đèn điểm xuyết bầu trời rực rỡ đầy sao.
The narrow path had opened suddenly onto the edge of a great black lake. Perched atop a high mountain on the other side, its windows sparkling in the starry sky, was a vast castle with many turrets and towers.
Lão Hagrid chỉ một đoàn thuyền nhỏ chờ sẵn bên bờ hồ, kêu to:
“Lên thuyền. Mỗi thuyền không chở quá bốn người!”
“No more’n four to a boat!” Hagrid called, pointing to a fleet of little boats sitting in the water by the shore.
Neville cùng Hermione theo Harry và Ron lên thuyền.
Harry and Ron were followed into their boat by Neville and Hermione.
Hagrid, một mình một thuyền, kêu to lần nữa:
“Mọi người lên thuyền hết chưa? Xong rồi thì… tiến lên!”
“Everyone in?” shouted Hagrid, who had a boat to himself. “Right then — FORWARD!”
Cả đoàn thuyền cùng rời bến một lúc, băng ngang mặt hồ phẳng lặng như mặt gương. Mọi người đều im lặng, đăm đăm nhìn lên tòa lâu đài trước mặt. Nó hiện ra như một ngọn tháp khổng lồ, càng ngày càng hùng vĩ khi đoàn thuyền buồm tiến càng gần đến mỏm núi.
And the fleet of little boats moved off all at once, gliding across the lake, which was as smooth as glass. Everyone was silent, staring up at the great castle overhead. It towered over them as they sailed nearer and nearer to the cliff on which it stood.
Khi những chiếc thuyền đầu tiên cập được vách núi, lão Hagrid hô lên:
“Cúi đầu xuống!”
Cả lũ lại cúi đầu xuống, và những chiếc thuyền đưa chúng chui qua một tấm màn, kết bằng những dây trường xuân rũ xuống, che phủ cả một cái cửa rộng thênh thang mở ra trên vách núi.
“Heads down!” yelled Hagrid as the first boats reached the cliff; they all bent their heads and the little boats carried them through a curtain of ivy that hid a wide opening in the cliff face.
Cửa này dẫn vào một đường hầm tối om, có lẽ là con đường ngầm chạy dưới chân lâu đài, đến một bến cảng cũng nằm sâu dưới đất. Cập bến, bọn trẻ bèn lục tục trèo lên bãi đầy sỏi đá.
They were carried along a dark tunnel, which seemed to be taking them right underneath the castle, until they reached a kind of underground harbor, where they clambered out onto rocks and pebbles.
Còn lão Hagrid đi kiểm tra lại những chiếc thuyền xem còn sót thứ gì không. Lão kêu lên:
“À, ra mày! Có phải con cóc của trò đây không?”
“Oy, you there! Is this your toad?” said Hagrid, who was check- ing the boats as people climbed out of them.
Neville mừng rỡ giơ tay ra:
“Trevor!”
“Trevor!” cried Neville blissfully, holding out his hands.
Cả đám lại tiếp tục trèo lên một lối đi trong núi đá, nhắm theo ánh đèn của lão Hagrid mà đi tới một con đường bằng phẳng hơn, dẫn tới bãi cỏ mịn màng đẫm sương nằm ngay dưới bóng tòa lâu đài.
Then they clambered up a passageway in the rock after Hagrid’s lamp, coming out at last onto smooth, damp grass right in the shadow of the castle.
Bọn trẻ hớn hở bước lên những bậc thềm đá và đứng túm tụm trước cánh cổng khổng lồ bằng gỗ sồi.
They walked up a flight of stone steps and crowded around the huge, oak front door.
“Mọi người đông đủ cả rồi hả? Cả con cóc của trò vẫn còn đó chứ?”
“Everyone here? You there, still got yer toad?”
Nói xong, lão Hagrid giơ nắm tay khổng lồ lên, đấm mạnh vào cánh cửa tòa lâu đài ba lần.
Hagrid raised a gigantic fist and knocked three times on the cas- tle door.
Chapter 5 Chapter 7
🙏 Loving the content – Support me with a Coffee or a Cupcake:
Paypal: https://www.paypal.com/paypalme/comicqueen?country.x=VN&locale.x=en_US