Diagon alley – Hẻm Xéo
Author: J.K.Rowling
Translator: Lý Lan
Sáng hôm sau Harry thức dậy sớm. Mặc dù biết là trời sáng rồi, nó vẫn nhắm tít mắt lại.
Harry woke early the next morning. Although he could tell it was daylight, he kept his eyes shut tight.
Nó tự nhủ:
“Chỉ là một giấc mơ. Mình mơ thấy một người khổng lồ tên là Hagrid đến bảo mình chuẩn bị đi học ở trường pháp thuật. Mình mà mở mắt ra, mình sẽ lại ở trong căn phòng xép dưới gầm cầu thang.”
“It was a dream,” he told himself firmly. “I dreamed a giant called Hagrid came to tell me I was going to a school for wizards. When I open my eyes I’ll be at home in my cupboard.”
Bỗng nhiên có tiếng gõ rất to. Harry nghĩ: “Thôi rồi, dì Petunia đang gọi cửa kêu mình dậy”. Tim nó thắt lại một cái. Nhưng nó vẫn chưa chịu mở mắt ra. Giấc mơ đêm qua đẹp biết chừng nào.
There was suddenly a loud tapping noise.
And there’s Aunt Petunia knocking on the door, Harry thought, his heart sinking. But he still didn’t open his eyes. It had been such a good dream.
Cạch. Cạch. Cạch
Tap. Tap. Tap.
Harry lầm bầm:
“Đành thôi. Dậy rồi nè.”
“All right,” Harry mumbled, “I’m getting up.”
Harry ngồi dậy, chiếc áo khoác đen của lão Hagrid rời khỏi mình nó. Căn chòi tràn ngập ánh sáng mặt trời, cơn bão đã qua, lão Hagrid nằm khoèo trên chiếc ghế dài đã sập mà ngáy khò khò, và ngoài kia, một con cú đang gõ mỏ vào cửa sổ, trong mỏ nó ngậm một tờ báo.
He sat up and Hagrid’s heavy coat fell off him. The hut was full of sunlight, the storm was over, Hagrid himself was asleep on the collapsed sofa, and there was an owl rapping its claw on the win- dow, a newspaper held in its beak.
Harry nhảy cẩng lên, mừng vui hết xiết như thể trong người nó có một cái bong bóng to đang phình ra. Nó chạy tới, mở toang cửa sổ. Con cú bay vào ngay, thả tờ báo trên đầu Hagrid, nhưng lão vẫn ngủ say. Con cú bèn nhảy loanh quanh căn phòng, mổ chiếc áo khoác của lão Hagrid.
Harry scrambled to his feet, so happy he felt as though a large balloon was swelling inside him. He went straight to the window and jerked it open. The owl swooped in and dropped the newspa- per on top of Hagrid, who didn’t wake up. The owl then fluttered onto the floor and began to attack Hagrid’s coat.
Harry cố gắng xua đuổi con cú:
“Đừng làm vậy!”
Nhưng con cú mổ vô mặt Harry một cách giận dữ, rồi cứ tiếp tục hành hạ cái áo khoác.
“Don’t do that.”
Harry tried to wave the owl out of the way, but it snapped its beak fiercely at him and carried on savaging the coat.
Harry bèn kêu:
“Bác Hagrid có một con cú…”
“Hagrid!” said Harry loudly. “There’s an owl —”
Lão Hagrid cằn nhằn trong cơn ngái ngủ:
“Boa nó đi!”
“Pay him,” Hagrid grunted into the sofa.
“Dạ?”
“Nó muốn được trả công phát báo. Kiếm trong túi áo.”
“What?”
“He wants payin’ fer deliverin’ the paper. Look in the pockets.”
Harry lục túi, cái áo khoác của lão Hagrid dường như làm toàn bằng những cái túi, trong đó vô số các thứ: mấy chùm chìa khóa, những cuộn dây nhợ, kẹo bạc hà, những bịch trà túi lọc, … cuối cùng Harry kiếm được một nắm bạc cắc lạ lùng.
Hagrid’s coat seemed to be made of nothing but pockets — bunches of keys, slug pellets, balls of string, peppermint humbugs, teabags . . . finally, Harry pulled out a handful of strange-looking coins.
Giọng Hagrid ngái ngủ:
“Boa nó năm Knuts.”
“Give him five Knuts,” said Hagrid sleepily.
“Knuts là cái gì?”
“Knuts?”
“Là những tiền đồng nhỏ.”
“The little bronze ones.”
Harry đếm năm Knuts, con cú giơ chân ra để Harry bỏ mấy đồng tiền xu vô một cái túi nhỏ cột bên chân. Rồi nó bay qua cửa sổ đi mất.
Harry counted out five little bronze coins, and the owl held out his leg so Harry could put the money into a small leather pouch tied to it. Then he flew off through the open window.
Lão Hagrid ngáp ầm ĩ, ngồi dậy, vươn vai.
Hagrid yawned loudly, sat up, and stretched.
“Đi thôi Harry, hôm nay còn nhiều chuyện phải làm lắm. Ta phải đưa con đi Luân Đôn để sắm sửa cho ngày tựu trường.”
“Best be off, Harry, lots ter do today, gotta get up ter London an’ buy all yer stuff fer school.”
Harry vẫn còn lật qua lật lại xem xét mấy đồng xu phù thủy. Nó đang nghĩ đến cái điều gì đó như cái bong bóng đã làm nó lâng lâng khi thức dậy. Cái bong bóng hình như đang xì hơi.
Harry was turning over the wizard coins and looking at them. He had just thought of something that made him feel as though the happy balloon inside him had got a puncture.
Nó ngập ngừng:
“Bác… bác… Hagrid à…”
“Um — Hagrid?”
“Hả?”
Lão Hagrid đang xỏ chân vô đôi giầy ống to tướng.
“Mm?” said Hagrid, who was pulling on his huge boots.
Harry bối rối:
“Con… con không có tiền, không có xu nào hết. Mà bác nghe dượng con nói rồi đó, ổng không chịu đóng học phí cho con đi học trường pháp thuật.”
“I haven’t got any money — and you heard Uncle Vernon last night . . . he won’t pay for me to go and learn magic.”
Lão Hagrid đứng lên gãi đầu.
“Đừng lo chuyện đó. Chẳng lẽ ba má con không để lại gì cho con sao?”
“Don’t worry about that,” said Hagrid, standing up and scratch- ing his head. “D’yeh think yer parents didn’t leave yeh anything?”
“Nhưng nếu cái nhà đã bị tiêu hủy…”
“But if their house was destroyed —”
“Ba má con không cất vàng trong nhà đâu. Để coi, trước tiên chúng ta ghé qua Gringotts, ngân hàng phù thủy. Ăn một miếng xúc xích đi, cũng chưa đến nỗi nguội ngắt. Và nếu con mời ta một miếng bánh sinh nhật của con, ta không chê đâu.”
“They didn’ keep their gold in the house, boy! Nah, first stop fer us is Gringotts. Wizards’ bank. Have a sausage, they’re not bad cold — an’ I wouldn’ say no teh a bit o’ yer birthday cake, neither.”
“Phù thủy cũng có ngân hàng à?”
“Wizards have banks?”
“Có một cái thôi – Gringotts. Bọn yêu tinh điều hành.”
“Just the one. Gringotts. Run by goblins.”
Harry làm rớt miếng xúc xích đang cầm, miệng há hốc ra:
“Yêu Tinh hả?”
Harry dropped the bit of sausage he was holding.
“Goblins?”
“Ừ. Cho nên chỉ có đồ điên mới dám tính chuyện cướp nhà băng này. Harry, con đừng bao giờ dây dưa lôi thôi với tụi yêu tinh. Ngoài Hogwarts ra, Gringotts là nơi an toàn nhất thế giới để ký gởi tiền bạc của cải. Thật ra ta cũng có chuyện phải ghé qua Gringotts. Theo lệnh của cụ Dumbledore. Chuyện công cán cho trường Hogwarts ấy mà.”
Yeah — so yeh’d be mad ter try an’ rob it, I’ll tell yeh that. Never mess with goblins, Harry. Gringotts is the safest place in the world fer anything yeh want ter keep safe — ’cept maybe Hog- warts. As a matter o’ fact, I gotta visit Gringotts anyway Fer Dum- bledore. Hogwarts business.”
Lão Hagrid nói đến đây thì ưỡn ngực ra một cách tự hào:
“Cụ Dumbledore thường giao cho ta những công tác quan trọng, như đi đón con, hay đi ngân hàng. Con thấy rõ là cụ tín nhiệm ta lắm. Xong chưa? Thôi, đi nào.”
Hagrid drew himself up proudly. “He usually gets me ter do important stuff fer him. Fetchin’ you — gettin’ things from Gringotts — knows he can trust me, see. “Got everythin’? Come on, then.”
Harry theo lão Hagrid ra khỏi căn chòi, đứng trên mỏm đá. Bầu trời bây giờ đã trong trẻo, biển lấp lánh muôn vàn tia nắng. Chiếc xuồng của ông Dursley mướn vẫn còn dập dềnh trên sóng sau cơn bão.
Harry followed Hagrid out onto the rock. The sky was quite clear now and the sea gleamed in the sunlight. The boat Uncle Ver- non had hired was still there, with a lot of water in the bottom af- ter the storm.
Harry nhìn quanh tìm kiếm mà không thấy một chiếc xuồng khác. Nó hỏi:
“Làm sao bác đến được đây?”
“How did you get here?” Harry asked, looking around for an- other boat.
Hagrid thản nhiên đáp:
“Bay.”
“Flew,” said Hagrid.
“Bay hả?”
“Flew?”
“Ừ. Nhưng mà bây giờ chúng ta sẽ vô bờ bằng chiếc xuồng này. Ta không được phép xài phép thuật khi đi với con.”
“Yeah — but we’ll go back in this. Not s’pposed ter use magic now I’ve got yeh.”
Hai người xuống xuồng, nhưng Harry vẫn nhìn chòng chọc lão Hagrid, cố tưởng tượng xem con người khổng lồ này bay ra làm sao?
They settled down in the boat, Harry still staring at Hagrid, try- ing to imagine him flying.
Lão Hagrid lại né tránh cái nhìn của Harry, bảo:
“Ta mà phải chèo tay thì thật là bôi bác. Nếu… ta làm phép cho xuồng chạy mau mau một chút thì con cũng đừng nói gì khi đến Hogwarts nha!”
“Seems a shame ter row, though,” said Hagrid, giving Harry an- other of his sideways looks. “If I was ter — er — speed things up a bit, would yeh mind not mentionin’ it at Hogwarts?”
Harry nói ngay, vì nôn nóng muốn được xem phép thuật:
“Dạ, không đâu.”
“Of course not,” said Harry, eager to see more magic.
Lão Hagrid lại rút cây dù ra, đập nó hai lần vô be xuồng, thế là vút một cái, cả hai đã ra khỏi hòn đảo, hướng vô đất liền.
Hagrid pulled out the pink umbrella again, tapped it twice on the side of the boat, and they sped off toward land.
Harry lại hỏi:
“Tại sao âm mưu cướp ngân hàng Gringotts lại là điên rồ?”
“Why would you be mad to try and rob Gringotts?” Harry asked.
Lão Hagrid vừa giở tờ báo phù thủy ra vừa nói:
“Người ta nói ngân hàng đó có những con rồng canh giữ kho bạc. Với lại không dễ có lối thoát ra. Gringotts nằm sâu dưới đáy Luân Đôn mấy trăm dặm, hiểu không? Sâu tuốt dưới âm phủ. Cho dù có rờ vô được kho bạc rồi cũng không có cách nào chui lên được mặt đất, hoặc sẽ chết đói trước khi chui lên được.”
“Spells — enchantments,” said Hagrid, unfolding his news- paper as he spoke. “They say there’s dragons guardin’ the high- security vaults. And then yeh gotta find yer way — Gringotts is hundreds of miles under London, see. Deep under the Under- ground. Yeh’d die of hunger tryin’ ter get out, even if yeh did man- age ter get yer hands on summat.”
Harry ngồi yên suy nghĩ về điều này trong khi lão Hagrid đọc báo, tờ Nhật báo Tiên Tri. Với kinh nghiệm ở nhà ông Dursley, Harry biết là khi người ta đọc báo thì đừng dại dột quấy rầy. Nhưng mà với hàng trăm câu hỏi “tại sao?”, “cái gì?” cứ ngọ nguậy trong đầu, Harry khổ sở lắm mới ráng ngồi yên được.
Harry sat and thought about this while Hagrid read his newspa- per, the Daily Prophet. Harry had learned from Uncle Vernon that people liked to be left alone while they did this, but it was very dif- ficult, he’d never had so many questions in his life.
Lão Hagrid lật trang báo, chắt lưỡi:
“Bộ trưởng Pháp thuật lại làm mọi thứ tầy huầy ra!”
“Ministry o’ Magic messin’ things up as usual,” Hagrid mut- tered, turning the page.
Harry không tự ngăn mình được, vọt miệng hỏi:
“Có Bộ trưởng Pháp thuật nữa à?”
“There’s a Ministry of Magic?” Harry asked, before he could stop himself.
Lão Hagrid nói:
“Dĩ nhiên là có. Người ta còn muốn cụ Dumbledore làm bộ trưởng nữa kìa, nhưng cụ không chịu rời bỏ trường Hogwarts, cho nên lão Cornelius lãnh chức đó. Lão là chuyên viên làm hỏng việc. Thành ra mỗi sáng lão lại quấy rầy cụ Dumbledore bằng cách sai cú đến xin ý kiến cụ.”
“ ’Course,” said Hagrid. “They wanted Dumbledore fer Minis- ter, o’ course, but he’d never leave Hogwarts, so old Cornelius Fudge got the job. Bungler if ever there was one. So he pelts Dum- bledore with owls every morning, askin’ fer advice.”
“Nhưng mà Bộ trưởng Pháp thuật làm cái gì?”
“But what does a Ministry of Magic do?”
“À, công việc chính là làm cho dân Muggle không biết là phù thủy vẫn nhan nhản khắp nơi.”
“Well, their main job is to keep it from the Muggles that there’s still witches an’ wizards up an’ down the country.”
“Để chi vậy?”
“Why?”
“Để chi hả? Harry ơi, người đời ai cũng muốn nhờ phép thuật giải quyết dùm họ những rắc rối cuộc đời họ. Tốt nhất là chúng ta nên được để yên thân.”
“Why? Blimey, Harry, everyone’d be wantin’ magic solutions to their problems. Nah, we’re best left alone.”
Lúc này chiếc xuồng đã nhẹ nhàng đụng vào kè đá cảng. Lão Hagrid xếp lại tờ báo và cả hai bước theo những bậc đá mà lên đến mặt đường.
At this moment the boat bumped gently into the harbor wall. Hagrid folded up his newspaper, and they clambered up the stone steps onto the street.
Ai cũng trợn mắt ngó lão Hagrid trên đường đến ga xe điện ở cái thị trấn tí tẹo này. Harry không thể trách họ. Lão Hagrid chẳng những cao gần gấp đôi người bình thường, mà lại còn chỉ trỏ lung tung những thứ đồ hoàn toàn bình thường trên đường phố, như cái đồng hồ tính giờ đậu xe, nói oang oang:
“Thấy cái đó không, Harry? Toàn là đồ nhảm nhí của bọn Muggle nghĩ ra!”
Passersby stared a lot at Hagrid as they walked through the little town to the station. Harry couldn’t blame them. Not only was Ha- grid twice as tall as anyone else, he kept pointing at perfectly ordi- nary things like parking meters and saying loudly, “See that, Harry? Things these Muggles dream up, eh?”
Để theo kịp bước đi của lão khổng lồ Hagrid, Harry phải vừa đi vừa chạy, cho nên giọng nó hơi hổn hển:
“Bác Hagrid, bác nói là có rồng ở Gringotts hả?”
“Hagrid,” said Harry, panting a bit as he ran to keep up, “did you say there are dragons at Gringotts?”
“Ờ, nghe nói vậy. Nói có quỷ ma làm chứng, ta khoái rồng lắm.”
“Well, so they say,” said Hagrid. “Crikey, I’d like a dragon.”
“Bác khoái rồng hả?”
“You’d like one?”
“Từ hồi nhỏ ta đã muốn có một con rồng. Tới rồi đây.”
“Wanted one ever since I was a kid — here we go.”
Họ đã tới ga xe điện. Chuyến xe điện từ đây đến Luân Đôn sắp chạy trong chừng năm phút nữa. Lão Hagrid chẳng biết xài “tiền Muggle” – tiếng lão dùng, nên lão đưa tờ giấy bạc cho Harry mua vé.
They had reached the station. There was a train to London in five minutes’ time. Hagrid, who didn’t understand “Muggle money,” as he called it, gave the bills to Harry so he could buy their tickets.
Trên xe lửa, người ta còn ngó lão Hagrid dữ hơn: Lão chiếm hết hai chỗ ngồi và ngồi đó đan móc một thứ gì đó trông giống như lều xiếc màu vàng tươi.
People stared more than ever on the train. Hagrid took up two seats and sat knitting what looked like a canary-yellow circus tent.
Vừa đếm mấy mũi đan lão hỏi:
“Còn giữ lá thư của con không Harry?”
“Still got yer letter, Harry?” he asked as he counted stitches.
Harry móc ngay lá thư bằng giấy da ra khỏi phong bì. Lão Hagrid bảo:
“Tốt. Có một danh sách những thứ mà con cần trong đó.”
Harry took the parchment envelope out of his pocket.
“Good,” said Hagrid. “There’s a list there of everything yeh need.”
Harry mở tờ giấy thứ hai kèm theo mà tối hôm qua nó chưa kịp chú ý. Tờ giấy ghi:
Harry unfolded a second piece of paper he hadn’t noticed the night before, and read:
HỌC VIỆN PHÁP THUẬT VÀ MA THUẬT HOGWARTS
ĐỒNG PHỤC
Học sinh năm thứ nhất cần:
- Ba bộ áo chùng thực tập (màu đen).
- Một nón đỉnh nhọn (đen) đội ban ngày.
- Một bộ găng tay bảo hộ (bằng da rồng hay tương tự).
- Một áo trùm mùa đông (đen, thắt lưng bạc).
Lưu ý là đồng phục của tất cả học sinh đều mang phù hiệu và tên.
HOGWARTS SCHOOL
of WITCHCRAFT and WIZARDRY
uniform
First-year students will require:
- Three sets of plain work robes (black)
- One plain pointed hat (black) for day wear
- One pair of protective gloves (dragon hide or similar)
- One winter cloak (black, silver fastenings)
Please note that all pupils’ clothes should carry name tags
SÁCH GIÁO KHOA
Tất cả các học sinh đều phải có các sách kiệt kê sau đây:
– Sách thần chú căn bản (lớp 1) của Miranda Goshawk.
– Lịch sử Pháp thuật của Bathilda Bagshot.
– Lý thuyết Pháp thuật của Adalbert Waffling.
– Hướng dẫn biến hình dành cho người nhập môn của Emeric Switch.
– Một ngàn thảo dược và nấm mốc có phép thuật của Phyllida Spore.
– Đề cương phép lạ và độc dược của Arsenius Jigger.
– Quái vật kỳ thú và nơi tìm ra chúng của Newt Scamander.
– Những lực lượng hắc ám: Hướng dẫn tự vệ của Quentin Trimble.
Course books
All students should have a copy of each of the following:
The Standard Book of Spells (Grade 1)
by Miranda Goshawk
A History of Magic by Bathilda Bagshot
Magical Theory by Adalbert Waffling
A Beginners’ Guide to Transfiguration by Emeric Switch
One Thousand Magical Herbs and Fungi
by Phyllida Spore
Magical Drafts and Potions by Arsenius Jigger
Fantastic Beasts and Where to Find Them
by Newt Scamander
The Dark Forces: A Guide to Self-Protection
by Quentin Trimble
TRANG THIẾT BỊ KHÁC
– 1 cây đũa phép.
– 1 cái vạc (bằng thiếc, cỡ số 2).
– 1 bộ chai hũ ống nghiệm thủy tinh.
– 1 kính viễn vọng.
– 1 bộ cân bằng đồng.
Học sinh cũng có thể đem theo một con cú hoặc một con mèo hoặc một con cóc.
OTHER EQUIPMENT
1 wand
1 cauldron (pewter, standard size 2)
1 set glass or crystal phials
1 telescope
1 set brass scales
Students may also bring an owl OR a cat OR a toad
LƯU Ý PHỤ HUYNH LÀ HỌC SINH NĂM THỨ NHẤT KHÔNG ĐƯỢC PHÉP CÓ CÁN CHỔI RIÊNG.
PARENTS ARE REMINDED THAT FIRST YEARS
ARE NOT ALLOWED THEIR OWN BROOMSTICKS
Harry không thể đừng la to cái thắc mắc của nó:
“Có thể mua tất cả những thứ này ở Luân Đôn à?”
Lão Hagrid nói:
“Nếu biết chỗ bán.”
“Can we buy all this in London?” Harry wondered aloud.
“If yeh know where to go,” said Hagrid.
Từ trước đến giờ, Harry chưa từng được đi Luân Đôn. Còn lão Hagrid, tuy có vẻ biết rõ mình đang đi đâu, nhưng rõ ràng là không quen với cái cách tới được chỗ đó bằng phương tiện giao thông thông thường trong thế giới phàm nhân. Lão bị kẹt trong cái máy kiểm soát vé xe điện ngầm, càu nhàu om sòm rằng ghế thì nhỏ, xe gì mà chậm rề rề.
Harry had never been to London before. Although Hagrid seemed to know where he was going, he was obviously not used to getting there in an ordinary way. He got stuck in the ticket barrier on the Underground, and complained loudly that the seats were too small and the trains too slow.
Vừa trèo những bậc thang sứt mẻ để lên đến mặt đường đầy xe cộ tiệm quán, lão nói:
“Chẳng hiểu nổi làm sao bọn Muggle không có pháp thuật mà lại có thể xoay xở được?”
“I don’t know how the Muggles manage without magic,” he said as they climbed a broken-down escalator that led up to a bustling road lined with shops.
Lão to lớn đến nỗi có thể vẹt đám đông để lấy lối đi một cách dễ dàng, Harry chỉ cần hộc tốc bám theo gót lão. Họ đi ngang qua tiệm sách và tiệm nhạc, nhà hàng và rạp hát, nhưng không có chỗ nào trông có vẻ là có cây đũa phép để bán cho Harry. Đó chỉ là một con phố bình thường, đầy nhóc những người bình thường. Có thể nào nằm sâu dưới đó hàng nghìn thước lại là hàng đống vàng của phù thủy? Có thể nào có thực những tiệm bán sách thần chú và cán chổi thần? Hay là tất cả những câu chuyện phù thủy ấy chẳng qua là một trò đùa độc ác khác của gia đình Dursley? Nhưng những người mang họ Dursley không bao giờ biết đùa, Harry biết chắc vậy. Vì vậy Harry không thể nào không tin lão Hagrid mặc dù những gì lão nói không có chỗ nào có thể tin được.
Hagrid was so huge that he parted the crowd easily; all Harry had to do was keep close behind him. They passed book shops and music stores, hamburger restaurants and cinemas, but nowhere that looked as if it could sell you a magic wand. This was just an ordinary street full of ordinary people. Could there really be piles of wizard gold buried miles beneath them? Were there really shops that sold spell books and broomsticks? Might this not all be some huge joke that the Dursleys had cooked up? If Harry hadn’t known that the Dursleys had no sense of humor, he might have thought so; yet somehow, even though everything Hagrid had told him so far was unbelievable, Harry couldn’t help trusting him.
Lão Hagrid bỗng dừng chân bảo:
“Đây rồi. Cái vạc lủng. Một nơi nổi tiếng.”
“This is it,” said Hagrid, coming to a halt, “the Leaky Cauldron. It’s a famous place.”
Đó là một quán rượu nhỏ xíu trông nhếch nhác. Nếu lão Hagrid mà không chỉ thì Harry cũng không nhận ra được là nó nằm ở đó. Người ta vội vã đi ngang qua mà không hề liếc tới nó một cái. Ánh mắt của họ trượt từ tiệm sách lớn bên này sang tiệm băng đĩa nhạc bên kia như thể họ không hề thấy tiệm rượu Cái Vạc Lủng. Thật tình, Harry có cảm giác rất kỳ quặc là dường như chỉ có nó và lão Hagrid là có thể nhìn thấy quán rượu ấy. Nhưng nó chưa kịp nêu nhận xét này thì lão Hagrid đã đẩy cửa bước vô trong tiệm.
It was a tiny, grubby-looking pub. If Hagrid hadn’t pointed it out, Harry wouldn’t have noticed it was there. The people hurrying by didn’t glance at it. Their eyes slid from the big book shop on one side to the record shop on the other as if they couldn’t see the Leaky Cauldron at all. In fact, Harry had the most peculiar feeling that only he and Hagrid could see it. Before he could mention this, Ha- grid had steered him inside.
Nơi nổi tiếng gì mà vừa tối tăm vừa nhớp nháp. Vài ba mụ già ngồi trong góc, nhấm nháp mấy ly rượu nhỏ xíu, một người hút một ống píp dài. Một gã đàn ông nhỏ thó đội một cái nón cao đang nói chuyện với người bán rượu ở bên quầy. Ông bán rượu này có một cái đầu xói xọi trông giống như một hạt dẻ sún răng. Tiếng rì rầm tán dóc khắp nơi chợt ngưng khi lão Hagrid và Harry bước vào. Mọi người dường như biết Hagrid; họ vẫy tay chào và mỉm cười với lão, người bán rượu thì cầm ngay một cái ly giơ lên hỏi lão:
“Như mọi khi chứ, Hagrid?”
For a famous place, it was very dark and shabby. A few old women were sitting in a corner, drinking tiny glasses of sherry. One of them was smoking a long pipe. A little man in a top hat was talk- ing to the old bartender, who was quite bald and looked like a toothless walnut. The low buzz of chatter stopped when they walked in. Everyone seemed to know Hagrid; they waved and smiled at him, and the bartender reached for a glass, saying, “The usual, Hagrid?”
Nhưng lão Hagrid từ chối:
“Không được đâu, Tom. Ta đang đi công cán cho trường Hogwarts.”
Lão vỗ bàn tay bè của lão lên vai Harry, khiến thằng bé suýt té sụm.
“Can’t, Tom, I’m on Hogwarts business,” said Hagrid, clapping his great hand on Harry’s shoulder and making Harry’s knees buckle.
Người bán rượu nhìn Harry ngờ ngợ:
“Quỷ thần ơi, đây là… có thể nào đây là…”
“Good Lord,” said the bartender, peering at Harry, “is this — can this be — ?”
Cả tiệm Cái Vạc Lủng đột ngột trở nên im phăng phắc và lặng ngắt.
The Leaky Cauldron had suddenly gone completely still and silent.
Người bán rượu thì thào:
“Ba hồn chín vía tôi. Đây đúng là Harry Potter. Hân hạnh cho tôi biết bao!”
“Bless my soul,” whispered the old bartender, “Harry Potter . . . what an honor.”
Ông ta vội vã đi vòng qua cái quầy rượu, nhào tới nắm tay Harry lắc lia lịa, nước mắt ràn rụa.
He hurried out from behind the bar, rushed toward Harry and seized his hand, tears in his eyes.
“Chúc mừng cậu trở về, cậu Potter, xin đón mừng cậu.”
“Welcome back, Mr. Potter, welcome back.”
Harry không biết nói gì. Mọi người đều đang nhìn nó. Mụ già ngậm ống píp cứ bập bập mà không nhận ra là ống píp đã tắt rồi. Lão Hagrid thì đang nở mày nở mặt.
Harry didn’t know what to say. Everyone was looking at him. The old woman with the pipe was puffing on it without realizing it had gone out. Hagrid was beaming.
Thế rồi họ bỗng rộ lên tiếng kéo bàn kéo ghế rần rần, mọi người có mặt ở Cái Vạc Lủng xúm lại bắt tay Harry.
Then there was a great scraping of chairs and the next moment, Harry found himself shaking hands with everyone in the Leaky Cauldron.
“Chào cậu Potter. Tôi là Doris Crockfort. Thật không thể tin là cuối cùng tôi đã gặp được cậu.”
“Doris Crockford, Mr. Potter, can’t believe I’m meeting you at last.”
“Thật là hân hạnh quá, cậu Potter, tôi lấy làm hân hạnh quá.”
“So proud, Mr. Potter, I’m just so proud.”
“Luôn luôn muốn bắt tay cậu, tôi hoàn toàn ngưỡng mộ cậu.”
“Always wanted to shake your hand — I’m all of a flutter.”
“Vui sướng quá cậu Potter ơi, vui đến nỗi nói không nên lời, tôi là Diggle, Dedalus Diggle.”
“Delighted, Mr. Potter, just can’t tell you, Diggle’s the name, Dedalus Diggle.”
Harry nói:
“Trước đây cháu có gặp bác rồi. Có lần bác chào cháu trong siêu thị.”
“I’ve seen you before!” said Harry, as Dedalus Diggle’s top hat fell off in his excitement. “You bowed to me once in a shop.”
Cái nón cao nghệu của ông Diggle suýt rớt ra vì hãnh diện. Ông nhìn mọi người chung quanh hồ hởi kêu to:
“Cậu ấy nhận ra tôi, quý vị nghe thấy không, cậu ấy còn nhớ tôi!”
“He remembers!” cried Dedalus Diggle, looking around at everyone. “Did you hear that? He remembers me!”
Harry cứ phải bắt tay đi bắt tay lại, Doris Crockfort cứ quay vòng lại bắt tay nó riết.
Harry shook hands again and again — Doris Crockford kept coming back for more.
Một người đàn ông nhợt nhạt chen tới chỗ Harry, trông ông có vẻ căng thẳng cực kỳ, một trong hai con mắt của ông cứ giật giật liên tục.
A pale young man made his way forward, very nervously. One of his eyes was twitching.
Lão Hagrid chào ông ta và giới thiệu:
“Chào giáo sư Quirrell. Harry, giáo sư Quirrell sẽ là một trong những người thầy dạy con ở trường Hogwarts.”
Professor Quirrell!” said Hagrid. “Harry, Professor Quirrell will be one of your teachers at Hogwarts.”
Giáo sư Quirrell lập cập nói:
“PP… P… Potter, t… t…tta không thể bày tỏ được vui mừng như thế nào khi gặp lại con.”
“P-P-Potter,” stammered Professor Quirrell, grasping Harry’s hand, “c-can’t t-tell you how p-pleased I am to meet you.”
“Thưa giáo sư Quirrell, thầy dạy môn pháp thuật gì?”
“What sort of magic do you teach, Professor Quirrell?”
“Ph… ph… phòng chống nghệ thuật hh… h… hắc ám.”
Giáo sư Quirrell lẩm bẩm như thể môn đó không đáng cho ông nghĩ tới.
“D-Defense Against the D-D-Dark Arts,” muttered Professor Quirrell, as though he’d rather not think about it.
Rồi ông cười vẻ kích động:
“Kh… kh… không cần, con không cần tới môn đó đâu hả, P… P… Ppotter? Ta chắc là con đã chuẩn bị mọi thứ để nhập học rồi hả. Ta vừa tự kiếm được một cuốn sách mới về ma-cà-rồng.”
Trông giáo sư có vẻ hãi hùng với ý tưởng đó.
“N-not that you n-need it, eh, P-P-Potter?” He laughed nervously. “You’ll be g-getting all your equipment, I suppose? I’ve g-got to p-pick up a new b-book on vampires, m-myself.” He looked terrified at the very thought.
Nhưng mấy người khác không chịu để giáo sư Quirrell dành hết Harry Potter. Lão Hagrid mất cả chục phút mới gỡ được Harry ra khỏi đám người vây lấy nó. Lão loay hoay một hồi cũng lớn tiếng át được sự ồn ào chộn rộn chung quanh.
But the others wouldn’t let Professor Quirrell keep Harry to himself. It took almost ten minutes to get away from them all. At last, Hagrid managed to make himself heard over the babble.
“Phải đi thôi, còn nhiều thứ phải mua. Harry, đi thôi.”
“Must get on — lots ter buy. Come on, Harry.”
Doris Crockfort bắt tay Harry lần cuối cùng, và lão Hagrid dắt nó qua quầy rượu vào một cái sân nhỏ có tường bao bọc. Ở đó không có gì cả ngoại trừ một cái thùng rác và mấy đám cỏ dại.
Doris Crockford shook Harry’s hand one last time, and Hagrid led them through the bar and out into a small, walled courtyard, where there was nothing but a trash can and a few weeds.
Lão Hagrid nhe răng cười với Harry:
“Ta đã nói với con rồi, đúng không? Ta đã nói là con nổi tiếng lắm mà. Ngay cả giáo sư Quirrell cũng xúc động khi gặp con. Nhân tiện ta nói cho con biết luôn, tật giáo sư là hay run lắm.”
Hagrid grinned at Harry.
“Told yeh, didn’t I? Told yeh you was famous. Even Professor Quirrell was tremblin’ ter meet yeh — mind you, he’s usually trem- blin’.”
“Lúc nào thầy cũng căng thẳng như thế sao?”
“Is he always that nervous?”
“Chớ sao. Tội nghiệp ổng. Một trí tuệ phi thường. Ổng mà nghiên cứu sách vở thì sự đời vẫn ổn, nhưng ổng lại xin nghỉ một năm đi thực tế… Nghe nói ổng đã gặp ma-cà-rồng ở Hắc Lâm, lại thêm chuyện lăng nhăng vớ vẩn với một mụ dạ-xoa nữa. Từ đó ổng không bao giờ lấy lại được phong độ như xưa. Từ đó ổng đâm ra sợ sệt, sợ cả học trò của mình, sợ cả môn mình dạy. Ủa, cây dù của ta đâu rồi?”
“Oh, yeah. Poor bloke. Brilliant mind. He was fine while he was studyin’ outta books but then he took a year off ter get some first- hand experience. They say he met vampires in the Black Forest, and there was a nasty bit o’ trouble with a hag — never been the same since. Scared of the students, scared of his own subject — now, where’s me umbrella?”
Cái đầu của Harry đang quay mòng mòng. Ma-cà-rồng? Mụ dạ-xoa? Lão Hagrid thì đang bận đếm những viên gạch bức tường sau thùng rác.
Vampires? Hags? Harry’s head was swimming. Hagrid, mean- while, was counting bricks in the wall above the trash can.
Lão lẩm bẩm:
“Ba dọc… hai ngang… Bên phải. Lùi lại, Harry.”
“Three up . . . two across . . .” he muttered. “Right, stand back, Harry.”
Lão dùng mũi dù gõ vào tường ba lần.
He tapped the wall three times with the point of his umbrella.
Những viên gạch lão sờ vào dường như rùng mình – chúng co lại – và ở chính giữa hiện ra một cái lỗ nhỏ. Cái lỗ dần dần lớn ra, lát sau trước mặt họ là một cái cổng lớn đến nỗi người khổng lồ như lão Hagrid cũng có thể đàng hoàng bước qua. Cánh cổng này mở ra một con đường trải đá cuội quanh co khúc khuỷu. Lão Hagrid nhe răng cười với Harry:
“Chào mừng quý khách đến Hẻm Xéo.”
The brick he had touched quivered — it wriggled — in the middle, a small hole appeared — it grew wider and wider — a sec- ond later they were facing an archway large enough even for Ha- grid, an archway onto a cobbled street that twisted and turned out of sight.
“Welcome,” said Hagrid, “to Diagon Alley.”
He grinned at Harry’s amazement.
Harry ngạc nhiên quá, bước qua cổng, và ngoái nhìn qua vai thấy cánh cổng thu lại thành lỗ hổng nhỏ dần và cả bức tường liền lại, y nguyên, vững chắc.
They stepped through the archway. Harry looked quickly over his shoulder and saw the arch- way shrink instantly back into solid wall.
Mặt trời soi chiếu rực rỡ trên hàng đống vạc chất bên ngoài cửa hàng gần họ nhất. Những cái vạc – đủ cỡ – bằng đồng có, bằng thau có, bằng thiếc có, bằng bạc cũng có. Một nhãn hiệu treo bên trên đống vạc cho biết: Tự khuấy – Xếp gọn được.
The sun shone brightly on a stack of cauldrons outside the nearest shop. Cauldrons — All Sizes — Copper, Brass, Pewter, Silver — Self-Stirring — Collapsible, said a sign hanging over them.
Lão Hagrid nói.
“Chà, con sẽ cần một cái nhưng chúng ta hãy đi lấy tiền trước đã.”
“Yeah, you’ll be needin’ one,” said Hagrid, “but we gotta get yer money first.”
Harry ước sao mình có thêm chừng tám con mắt nữa. Khi theo lão Hagrid bước lên phố, nó cứ quay ngang đầu, đảo dọc mắt, nhìn khắp bốn phương tám hướng, để thấy hết mọi thứ: Tiệm quán, đồ đạc bày tràn ra ngoài, người ta mua sắm tấp nập. Khi hai bác cháu đi ngang qua tiệm Apothecary nghe một bà mập mạp đứng bên ngoài cửa tiệm le lưỡi lắc đầu:
“Gan rồng gì mà những bảy mươi Sickles một cân, có mà điên…”
Harry wished he had about eight more eyes. He turned his head in every direction as they walked up the street, trying to look at everything at once: the shops, the things outside them, the people doing their shopping. A plump woman outside an Apothecary was shaking her head as they passed, saying, “Dragon liver, sixteen Sickles an ounce, they’re mad.”
Có tiếng còi rè phát ra từ một tiệm âm u mang bảng hiệu Sở cú Eeylops – Tawny, Screech, Barn, Brown, và Snowy. Rất nhiều trẻ con trạc tuổi Harry đang ịn mũi vào cửa sổ ngắm những cán chổi thần bày bên trong.
A low, soft hooting came from a dark shop with a sign saying Eeylops Owl Emporium — Tawny, Screech, Barn, Brown, and Snowy. Several boys of about Harry’s age had their noses pressed against a window with broomsticks in it.
Harry nghe một trong đám trẻ nói:
“Coi kìa! Cán Nimbus 2000 mới toanh – nhanh nhứt xưa nay…”
“Look,” Harry heard one of them say, “the new Nimbus Two Thousand — fastest ever —”
Những tiệm khác, cái thì bán áo chùng, cái thì bán kính viễn vọng và những trang thiết bị bằng bạc mà Harry chưa từng nhìn thấy lần nào trong đời. Nhiều tiệm chất đầy nhóc những thùng đựng lá lách dơi và mắt lươn. Và hàng núi sách thần chú, hàng súc to, hàng cuộn lớn giấy da, rồi những chai quỷ dược, những trái cầu phép…
There were shops selling robes, shops selling telescopes and strange silver instruments Harry had never seen before, windows stacked with barrels of bat spleens and eels’ eyes, tottering piles of spell books, quills, and rolls of parchment, potion bottles, globes of the moon. . . .
Cuối cùng hai bác cháu đến một tòa nhà trắng như tuyết, cao vượt trên những tiệm quán thấp lè tè. Lão Hagrid thông báo:
“Gringotts.”
“Gringotts,” said Hagrid.
They had reached a snowy white building that towered over the other little shops.
Đứng bên cạnh tấm cửa đồng bệ vệ, trong đồng phục màu tía và vàng, là…
“Đúng là yêu tinh đấy.”
Lão Hagrid nói thầm với Harry khi cả hai bước lên những bậc thềm trắng tiến về phía hắn.
Standing beside its burnished bronze doors, wearing a uniform of scarlet and gold, was —
“Yeah, that’s a goblin,” said Hagrid quietly as they walked up the white stone steps toward him.
Tên yêu tinh lùn hơn Harry cả cái đầu. Nhưng hắn có một gương mặt ngăm đem tinh quái, một chòm râu nhọn, và Harry để ý thấy chân cẳng và ngón tay của hắn rất dài. Hắn cúi chào khi hai bác cháu đi ngang qua. Bây giờ họ đối diện với hai cánh cửa khác, bằng bạc, với những dòng chữ này khắc trên cánh cửa:
The goblin was about a head shorter than Harry. He had a swarthy, clever face, a pointed beard and, Harry noticed, very long fingers and feet. He bowed as they walked inside. Now they were facing a second pair of doors, silver this time, with words engraved upon them:
Khách lạ, mời vào, nhưng chú ý:
Hễ tham thì thâm.
Những ai hưởng mà không hiến,
Đến phiên thì trả gấp nhiều lần vay.
Vậy cho nên nếu khám phá được.
Dưới sàn, kho tàng không phải của mình.
Thì, quân trộm cắp, hãy coi chừng.
Cái mi lãnh đủ không phải kho tàng đâu.
Enter, stranger, but take heed
Of what awaits the sin of greed,
For those who take, but do not earn,
Must pay most dearly in their turn.
So if you seek beneath our floors
A treasure that was never yours,
Thief, you have been warned, beware
Of finding more than treasure there.
Lão Hagrid nhắc lại:
“Như ta đã nói rồi đó, chỉ có điên rồ mới toan tính chuyện cướp Gringotts.”
“Like I said, yeh’d be mad ter try an’ rob it,” said Hagrid.
Hai tên yêu tinh lại cúi chào hai bác cháu khi họ đi qua cánh cửa bạc. Đằng sau một cái quầy dài, hàng trăm tên yêu tinh ngồi trên những cái ghế cao, hí hoáy viết những cuốn sổ cái, chăm chú cân bạc cắc bằng những chiếc cân đồng, cẩn thận kiểm tra những viên đá quý qua những con mắt kính. Có vô số cửa dẫn ra các hành lang, và nhiều yêu tinh nhộn nhịp hướng dẫn khách ra vô các cửa ra này. Lão Hagrid và Harry đi tới cái quầy.
A pair of goblins bowed them through the silver doors and they were in a vast marble hall. About a hundred more goblins were sit- ting on high stools behind a long counter, scribbling in large ledgers, weighing coins in brass scales, examining precious stones through eyeglasses. There were too many doors to count leading off the hall, and yet more goblins were showing people in and out of these. Hagrid and Harry made for the counter.
Lão nói với một tên yêu tinh đang rảnh:
“Chúc buổi sáng yên lành. Chúng tôi đến để rút ít tiền trong tủ ông Potter.”
“Morning,” said Hagrid to a free goblin. “We’ve come ter take some money outta Mr. Harry Potter’s safe.”
“Ông có chìa khóa chứ?”
“You have his key, sir?”
“Có chứ, ủa chắc nó đâu đây thôi.”
Lão Hagrid bắt đầu lộn trái các túi áo khoác, làm văng tung tóe cả nắm thực phẩm viên cho chó lên cuốn sổ của tên yêu tinh. Hắn nhăn mũi. Harry thì mãi ngó tên yêu tinh bên phải đang cân một đống hồng ngọc to như một đụn than đá.
“Got it here somewhere,” said Hagrid, and he started emptying his pockets onto the counter, scattering a handful of moldy dog biscuits over the goblins book of numbers. The goblin wrinkled his nose. Harry watched the goblin on their right weighing a pile of ru- bies as big as glowing coals.
Cuối cùng lão Hagrid reo lên:
“Kiếm được đây rồi.”
Lão đưa một chiếc chìa khóa bằng vàng bé tí cho tên yêu tinh. Tên này cầm lấy xem xét kỹ lưỡng rồi nói:
“Cái này trông đúng quy định.”
“Got it,” said Hagrid at last, holding up a tiny golden key. The goblin looked at it closely.
“That seems to be in order.”
Lão Hagrid ưỡn ngực ra vẻ quan trọng nói thêm:
“Và tôi còn có một lá thư của giáo sư Albus Dumbledore. Nó liên quan đến Cái-mà-ai-cũng-biết-là-cái-gì-đấy ở trong hầm bạc bảy trăm mười ba.”
“An’ I’ve also got a letter here from Professor Dumbledore,” said Hagrid importantly, throwing out his chest. “It’s about the You- Know-What in vault seven hundred and thirteen.”
Tên yêu tinh đọc lá thư rất cẩn thận. Xong, hắn đưa lá thư cho lão Hagrid nói:
“Rất tốt. Tôi sẽ cho người đưa quý vị xuống cả hai hầm bạc. Griphook.”
The goblin read the letter carefully.
“Very well,” he said, handing it back to Hagrid, “I will have someone take you down to both vaults. Griphook!”
Griphook là một tên yêu tinh khác. Hắn đợi cho lão Hagrid thu lượm mấy viên đồ ăn cho chó lại vô túi, rồi mới đưa lão cùng Harry đi về phía một trong những cánh cửa mở ra hành lang.
Griphook was yet another goblin. Once Hagrid had crammed all the dog biscuits back inside his pockets, he and Harry followed Griphook toward one of the doors leading off the hall.
Harry hỏi:
“Cái-mà-ai-cũng-biết-là-cái-gì-đấy ở trong hầm bạc bảy trăm mười ba là cái gì?”
“What’s the You-Know-What in vault seven hundred and thir- teen?” Harry asked.
Lão Hagrid làm ra vẻ bí mật:
“Không thể nói cho con biết được. Cực kỳ bí mật. Công tác của Hogwarts. Cụ Dumbledore tin tưởng ta. Nói cho con biết ta mất việc như chơi.”
“Can’t tell yeh that,” said Hagrid mysteriously. “Very secret. Hogwarts business. Dumbledore’s trusted me. More’n my job’s worth ter tell yeh that.”
Griphook mở cửa cho họ. Lần này Harry hơi ngạc nhiên, vì nó tưởng sẽ thấy những tường cẩm thạch nguy nghi như nãy giờ, nhưng lại chỉ thấy một lối đi hẹp bằng đá được những ngọn đuốc chập chờn rọi sáng. Con đường khá dốc dẫn xuống một cái sàn có những đường rày xe lửa nhỏ xíu. Griphook thổi còi, một toa xe tự hành cũng nhỏ xíu, lất cất chạy trên đường rày về phía họ. Họ trèo lên – lão Hagrid xoay trở hết sức vất vả – rồi toa xe vọt.
Griphook held the door open for them. Harry, who had ex- pected more marble, was surprised. They were in a narrow stone passageway lit with flaming torches. It sloped steeply down- ward and there were little railway tracks on the floor. Griphook whistled and a small cart came hurtling up the tracks toward them. They climbed in — Hagrid with some difficulty — and were off.
Ban đầu toa xe còn lất cất chạy trong những hành lang quanh co. Harry cố nhớ, trái, phải, phải, trái, giữa ngã ba, phải, trái, trái, phải… Nhưng rồi nó không thể nào nhớ được. Cái toa xe cút-kít coi bộ tự nó biết rõ lộ trình của nó, bởi vì chẳng thấy Griphook điều khiển gì cả.
At first they just hurtled through a maze of twisting passages. Harry tried to remember, left, right, right, left, middle fork, right, left, but it was impossible. The rattling cart seemed to know its own way, because Griphook wasn’t steering.
Không khí lạnh dần, luồng khí lạnh làm nhức buốt mắt Harry, nhưng nó không chịu nhắm mắt lại. Có một lần nó tưởng nó nhìn thấy một đốm lửa bừng lên ở cuối con đường, khi toa xe chạy qua khúc quanh nó mới nhận ra đó là một con rồng, nhưng không kịp nhìn kỹ. Họ càng xuống sâu, qua nhiều hồ ngầm dưới mặt đất, nơi những vú đá và măng đá khổng lồ thòng từ trên trần xuống và mọc từ dưới sàn lên. Cố nói to hơn tiếng ầm ầm của toa xe chạy, Harry hỏi lão Hagrid:
“Vú đá với măng đá khác nhau ra sao hả bác Hagrid?”
Harry’s eyes stung as the cold air rushed past them, but he kept them wide open. Once, he thought he saw a burst of fire at the end of a passage and twisted around to see if it was a dragon, but too late — they plunged even deeper, passing an underground lake where huge stalactites and stalagmites grew from the ceiling and floor.
“I never know,” Harry called to Hagrid over the noise of the cart, “what’s the difference between a stalagmite and a stalactite?”
“Chữ măng dài hơn chữ vú. Nhưng đừng có hỏi gì ta lúc này nữa. Ta cảm thấy say xe rồi.”
“Stalagmite’s got an ‘m’ in it,” said Hagrid. “An’ don’ ask me questions just now, I think I’m gonna be sick.”
Trông lão quả là tái nhợt đi, thật ra là trông lão xanh lè. Cuối cùng khi cái toa xe dừng lại bên cạnh một cánh cửa nhỏ trên tường của đường hầm, lão Hagrid leo xuống và phải đứng tựa vào tường để cho chân cẳng bớt run lẩy bẩy.
He did look very green, and when the cart stopped at last beside a small door in the passage wall, Hagrid got out and had to lean against the wall to stop his knees from trembling.
Griphook mở khóa cánh cửa. Khói xanh tỏa ra mù mịt, và khi khói tan, Harry há hốc miệng nhìn. Bên trong là hàng đụn vàng, hàng cột bạc, hàng đống tiền đồng nhỏ. Lão Hagrid mỉm cười:
“Của con tất cả đó.”
Griphook unlocked the door. A lot of green smoke came billow- ing out, and as it cleared, Harry gasped. Inside were mounds of gold coins. Columns of silver. Heaps of little bronze Knuts.
“All yours,” smiled Hagrid.
Tất cả là của Harry? Không thể tin được. Ông bà Dursley hẳn là không biết gì về kho tàng này, chứ nếu mà họ biết thì đời nào còn lại chút gì tới tay Harry? Biết bao nhiêu lần ông bà Dursley than vãn là họ tốn biết bao nhiêu tiền nuôi báo cô nó. Vậy mà có cả một kho tàng thuộc về nó nằm sâu phía dưới Luân Đôn.
All Harry’s — it was incredible. The Dursleys couldn’t have known about this or they’d have had it from him faster than blink- ing. How often had they complained how much Harry cost them to keep? And all the time there had been a small fortune belonging to him, buried deep under London.
Lão Hagrid giúp Harry hốt một mớ vàng bạc đồng vô một cái túi.
Hagrid helped Harry pile some of it into a bag.
Lão giải thích:
“Đồng vàng gọi là Galleons, mỗi đồng vàng ăn mười bảy Sickle bạc, và mỗi Sickle ăn hai mươi chín Knuts đồng, cũng dễ tính thôi. Xong, nhiêu đây là đủ cho hai học kỳ, phần còn lại được giữ an toàn cho con.”
“The gold ones are Galleons,” he explained. “Seventeen silver Sickles to a Galleon and twenty-nine Knuts to a Sickle, it’s easy enough. Right, that should be enough fer a couple o’ terms, we’ll keep the rest safe for yeh.”
Lão quay sang và nói với Griphook:
“Bây giờ làm ơn đưa chúng tôi đến hầm bạc bảy trăm mười ba, và chậm chậm một chút cho tôi nhờ.”
He turned to Griphook. “Vault seven hundred and thirteen now, please, and can we go more slowly?”
Griphook nói:
“Chỉ có một tốc độ mà thôi.”
“One speed only,” said Griphook.
Họ lại xuống sâu hơn nữa, và càng lúc càng tăng tốc. Không khí càng lạnh khủng khiếp khi họ vượt qua những khúc quanh chật hẹp. Lắc lư toa xe vượt qua một cái khe núi ngầm dưới lòng đất, Harry chồm qua thành toa để coi thử phía dưới đáy sâu thẳm và tối om ấy có gì, nhưng lão Hagrid nắm cổ áo nó kéo nó ngồi xuống và cự nự một mách.
They were going even deeper now and gathering speed. The air became colder and colder as they hurtled round tight corners. They went rattling over an underground ravine, and Harry leaned over the side to try to see what was down at the dark bottom, but Ha- grid groaned and pulled him back by the scruff of his neck.
Hầm bạc bảy trăm mười ba không có ổ khóa. Griphook lúc này cũng tỏ ra quan trọng, hắn bảo:
“Lùi lại.”
Vault seven hundred and thirteen had no keyhole.
“Stand back,” said Griphook importantly.
Rồi hắn gõ nhẹ nhàng lên cánh cửa bằng một ngón tay dài, và cánh cửa chỉ việc tan chảy ra.
He stroked the door gently with one of his long fingers and it simply melted away.
Griphook giải thích:
“Nếu người nào khác một yêu tinh Gringotts gõ lên cánh cửa thì hắn sẽ bị hút xuyên qua cánh cửa và mắc kẹt trong đó vĩnh viễn.”
“If anyone but a Gringotts goblin tried that, they’d be sucked through the door and trapped in there,” said Griphook.
Harry thắc mắc:
“Bao lâu các ông mới kiểm tra những thứ bên trong một lần?”
“How often do you check to see if anyone’s inside?” Harry asked.
Khoảng mười năm.
Griphook trả lời với một nụ cười quái dị.
“About once every ten years,” said Griphook with a rather nasty grin.
Trong hầm bạc cực kỳ an toàn này ắt hẳn phải là thứ gì cực kỳ phi thường. Harry chắc chắn như vậy, nên nó háo hức nhoái người vô xem, tưởng sẽ thấy ít nhất cũng cả biển châu báu ngọc ngà. Nhưng thoạt đầu nó chẳng thấy gì cả. Căn phòng hầu như trống rỗng. Rồi nó chú ý đến một cái gói nhỏ bụi bặm gói trong một miếng giấy nâu nằm trên sàn. Lão Hagrid lập tức nhặt nó lên nhét sâu vô túi trong của chiếc áo khoác. Harry thèm biết cái đó là cái gì hết sức, nhưng cũng biết là khôn hồn thì đừng hỏi.
Something really extraordinary had to be inside this top security vault, Harry was sure, and he leaned forward eagerly, expecting to see fabulous jewels at the very least — but at first he thought it was empty. Then he noticed a grubby little package wrapped up in brown paper lying on the floor. Hagrid picked it up and tucked it deep inside his coat. Harry longed to know what it was, but knew better than to ask.
Lão Hagrid nói:
“Đi thôi, trở lại cái xe thổ tả này, và đừng có mà nói chuyện với ta trên đường về, ta từ giờ ngậm chặt miệng là thượng sách.”
“Come on, back in this infernal cart, and don’t talk to me on the way back, it’s best if I keep me mouth shut,” said Hagrid.
Sau chuyến tàu lắc lư trở về mặt đất, hai bác cháu đứng chớp mắt lia lịa trong ánh nắng rạng rỡ phía trước tòa nhà Gringotts. Với một túi đầy tiền, Harry không biết nên chạy đi đâu và làm gì trước tiên. Nó không cần phải hỏi tỉ giá – một đồng Galleon ăn bao nhiêu đồng bảng Anh – cũng biết là nó đang có trong tay nhiều tiền hơn bao giờ hết trong đời nó. Nhiều hơn cả tiền mà Dudley từng có.
One wild cart ride later they stood blinking in the sunlight outside Gringotts. Harry didn’t know where to run first now that he had a bag full of money. He didn’t have to know how many Galleons there were to a pound to know that he was holding more money than he’d had in his whole life — more money than even Dudley had ever had.
Lão Hagrid hất đầu về phía cửa tiệm Trang phục cho mọi dịp của Phu nhân Malkin.
“Mua đồng phục trước đã.”
“Might as well get yer uniform,” said Hagrid, nodding toward Madam Malkin’s Robes for All Occasions.
Harry tưởng lão Hagrid dẫn mình vô tiệm, nhưng lão lại nói:
“Harry nè, con có phật ý không nếu ta ghé vô quán Cái Vạc Lủng làm một ly? Mấy toa xe Gringotts hành ta quá sức.”
“Listen, Harry, would yeh mind if I slipped off fer a pick-me-up in the Leaky Cauldron? I hate them Gringotts carts.”
Trông lão có vẻ còn hơi say xe, cho nên Harry đành đi vô tiệm của phu nhân Malkin một mình, trong lòng hết sức lo âu.
He did still look a bit sick, so Harry entered Madam Malkin’s shop alone, feeling nervous.
Phu nhân Malkin là một mụ phù thủy mập lùn, cười toe toét và mặc đồ toàn màu hoa cà.
Madam Malkin was a squat, smiling witch dressed all in mauve.
Harry vừa há miệng toan nói thì bà đã tươm tướp:
“Đồng phục Hogwarts hả cưng? Ở đây có nhiều lắm, tha hồ cho con chọn. Như trong kia lúc này có một quý ông trẻ tuổi đang thử đồ đấy.”
“Hogwarts, dear?” she said, when Harry started to speak. “Got the lot here — another young man being fitted up just now, in fact.”
Đằng sau cửa hàng, một thằng bé có gương mặt nhọn nhợt nhạt đang đứng trên cái bục cho một mụ phù thủy khác lượt thử cái áo chùng đen của nó. Phu nhân Malkin đặt Harry đứng trên một cái bục khác bên cạnh, trùm một cái áo dài qua đầu nó, bắt đầu đánh dấu chiều dài để xén bớt.
In the back of the shop, a boy with a pale, pointed face was standing on a footstool while a second witch pinned up his long black robes. Madam Malkin stood Harry on a stool next to him, slipped a long robe over his head, and began to pin it to the right length.
Thằng bé nhợt nhạt nói:
“Chào. Cũng vô Hogwarts à?”
“Hello,” said the boy, “Hogwarts, too?”
Harry đáp:
“Ừ.”
“Yes,” said Harry.
“Ba tao đang mua sách cho tao ở tiệm kế bên và má tao thì đã lên phía đầu phố để kiếm mua một cây đũa phép.”
“My father’s next door buying my books and mother’s up the street looking at wands,” said the boy.
Giọng thằng bé này có âm điệu nhừa nhựa chán ngắt. Nó lại nói nhiều:
“Lát nữa tao kéo má tao đi coi chổi đua. Thật không hiểu tại sao người ta lại không cho phép học sinh năm thứ nhất có chổi thần. Tao tính làm nư với ba má tao để mua cho tao một cây rồi tao sẽ lén đem vô trường.”
He had a bored, drawling voice. “Then I’m going to drag them off to look at racing brooms. I don’t see why first years can’t have their own. I think I’ll bully fa- ther into getting me one and I’ll smuggle it in somehow.”
Harry sực liên tưởng đến Dudley.
Harry was strongly reminded of Dudley.
Thằng bé vẫn tiếp tục huênh hoang:
“Nè, mày đã bao giờ có chổi riêng chưa?”
“Have you got your own broom?” the boy went on.
“Chưa.”
“No,” said Harry.
“Biết chơi Quidditch chớ?”
“Play Quidditch at all?”
“Không.”
Harry vừa đáp vừa thắc mắc không biết Quidditch là cái gì?
“No,” Harry said again, wondering what on earth Quidditch could be.
Thằng bé vênh váo:
“Tao chơi xịn. Ba má tao nói tao mà không được chọn vào đấu cho nhà tao thì đó là một tội lỗi. Và tao phải nói, tao đồng ý. Mày biết sẽ ở nhà nào chưa?”
“I do — Father says it’s a crime if I’m not picked to play for my House, and I must say, I agree. Know what House you’ll be in yet?”
“Chưa.”
Harry trả lời mà cảm thấy mình cứ ngu thêm từng phút một.
“No,” said Harry, feeling more stupid by the minute.
Thằng kia gật gù:
“Thật ra không ai thực sự biết cho đến khi chính thức nhập học. Nhưng mà tao thì biết là tao sẽ ở nhà Slytherin, tất cả mọi người trong gia đình tao đều từng ở đó mà. Thử nghĩ tao mà bị tống vô nhà Hufflepuff thì chắc tao nghỉ quá. Phải không?”
“Well, no one really knows until they get there, do they, but I know I’ll be in Slytherin, all our family have been — imagine be- ing in Hufflepuff, I think I’d leave, wouldn’t you?”
Harry chẳng biết nói gì hơn là phát ra một tiếng ậm ừ trong cổ họng, ước ao sao cho nó có được điều gì thú vị để nói.
“Mmm,” said Harry, wishing he could say something a bit more interesting.
Thằng bé nhợt nhạt bỗng kêu lên:
“Ê, ngó lão già kia kìa.”
Nó hất đầu về phía cửa sổ.
“I say, look at that man!” said the boy suddenly, nodding toward the front window.
Lão Hagrid đang đứng ở đó. Lão nhe răng cười với Harry và chỉ hai cây kem to tướng, ra hiệu lão không vào được. Harry mừng rỡ là giờ đây nó có biết một hai điều mà thằng bé không biết.
“Đó là bác Hagrid, bác làm việc trong trường Hogwarts.”
Hagrid was standing there, grinning at Harry and pointing at two large ice creams to show he couldn’t come in.
“That’s Hagrid,” said Harry, pleased to know something the boy didn’t. “He works at Hogwarts.”
Thằng bé nói:
“A, tao có nghe nói về lão. Một loại đầy tớ ấy mà, phải không?”
“Oh,” said the boy, “I’ve heard of him. He’s a sort of servant, isn’t he?”
Harry cảm thấy mình càng lúc càng bớt ưa thằng bé.
“Bác ấy là người giữ khóa.”
“He’s the gamekeeper,” said Harry. He was liking the boy less and less every second.
“Đúng y chang. Tao nghe nói ổng mọi rợ lắm – Sống trong một cái chòi trong sân trường, thỉnh thoảng lại say xỉn, lại còn tập tễnh làm phép thuật nữa chứ, nhưng rốt cuộc lại làm cháy cái giường của mình.”
“Yes, exactly. I heard he’s a sort of savage — lives in a hut on the school grounds and every now and then he gets drunk, tries to do magic, and ends up setting fire to his bed.”
Harry lạnh lùng nói:
“Tôi thấy bác ấy giỏi lắm.”
“I think he’s brilliant,” said Harry coldly.
Thằng bé khịt mũi:
“Mày tưởng vậy hả? Mà tại sao mày dây dưa với lão? Ba má mày đâu?”
“Do you?” said the boy, with a slight sneer. “Why is he with you? Where are your parents?”
“Họ chết rồi.”
Harry không muốn tiếp tục về đề tài đó với thằng bé này nữa.
“They’re dead,” said Harry shortly. He didn’t feel much like go- ing into the matter with this boy.
Thằng đó tỏ ra thương hại:
“Tội nghiệp. Nhưng ba má mày cũng thuộc giới của chúng ta, phải không?”
“Oh, sorry,” said the other, not sounding sorry at all. “But they were our kind, weren’t they?”
“Ý cậu nói là ba má tôi có phải là phù thủy không hả?”
“They were a witch and wizard, if that’s what you mean.”
“Mày cũng biết là người ta đâu có thu nhận người thuộc giới khác vào Hogwarts, đúng không? Họ không giống chúng ta, không được nuôi dạy theo cách của chúng ta. Có đứa chẳng biết tí gì về Hogwarts khi nhận được giấy gọi nhập học, tưởng tượng nổi không? Tao nghĩ người ta nên duy trì truyền thống gia đình phù thủy xưa. À, mày thuộc dòng họ nào?”
“I really don’t think they should let the other sort in, do you? They’re just not the same, they’ve never been brought up to know our ways. Some of them have never even heard of Hogwarts until they get the letter, imagine. I think they should keep it in the old wizarding families. What’s your surname, anyway?”
Harry chưa kịp mở miệng thì phu nhân Malkin đã lại nói trước:
“Con xong rồi cưng ạ.”
Harry chẳng hề tiếc cuộc trò chuyện bị chấm dứt ngang xương, nhảy ngay khỏi cái bục.
But before Harry could answer, Madam Malkin said, “That’s you done, my dear,” and Harry, not sorry for an excuse to stop talking to the boy, hopped down from the footstool.
Thằng kia nói:
“Thế chúng ta sẽ gặp lại nhau ở Hogwarts đúng không?”
“Well, I’ll see you at Hogwarts, I suppose,” said the drawling boy.
Harry hơi có vẻ lặng lẽ khi ăn que kem mà lão Hagrid mua cho nó (kem sôcôla có dâu và đậu phộng nữa). Lão Hagrid hỏi:
“Có chuyện gì vậy?”
Harry was rather quiet as he ate the ice cream Hagrid had bought him (chocolate and raspberry with chopped nuts).
“What’s up?” said Hagrid.
Harry nói dối:
“Đâu có gì đâu.”
“Nothing,” Harry lied.
Họ dừng chân mua giấy da và viết lông chim. Harry phấn khởi lên một chút khi tìm thấy bình mực tự đổi màu khi viết.
They stopped to buy parchment and quills. Harry cheered up a bit when he found a bottle of ink that changed color as you wrote.
Ra khỏi tiệm, Harry hỏi:
“Bác Hagrid, Quidditch là cái gì?”
When they had left the shop, he said, “Hagrid, what’s Quidditch?”
“Cô hồn các đảng ơi, ta cứ quên béng là chú nhỏ này không biết chút gì hết về Quidditch!”
“Blimey, Harry, I keep forgettin’ how little yeh know — not knowin’ about Quidditch!”
“Bác đừng làm cháu thêm nản lòng.”
Harry kể cho lão Hagrid nghe chuyện nó gặp thằng bé nhợt nhạt trong tiệm quần áo phu nhân Malkin.
“Don’t make me feel worse,” said Harry. He told Hagrid about the pale boy in Madam Malkin’s.
“Nó nói những người sinh trưởng trong gia đình người Muggle không được thu nhận vào Hogwarts.”
“— and he said people from Muggle families shouldn’t even be allowed in —”
“Nhưng con không thuộc gia đình người Muggle. Nếu thằng nhóc đó mà biết con đã là ai – Mà nó nhất định phải biết tên con nếu ba má nó thật sự là dân phù thủy. Con thấy đó, mọi người trong quán Cái Vạc Lủng tỏ ra như thế nào khi họ gặp con. Nhưng dù sao đi nữa thằng bé đó biết khỉ gì mà nói. Vì trong số những phù thủy giỏi nhất mà ta biết cũng có một số người vốn xuất thân từ giới Muggle, nhưng họ có phép thuật tự nhiên, như má con là một thí dụ. Con nghĩ xem, má con có một người chị tầm thường như thế nào!”
“Yer not from a Muggle family. If he’d known who yeh were — he’s grown up knowin’ yer name if his parents are wizardin’ folk. You saw what everyone in the Leaky Cauldron was like when they saw yeh. Anyway, what does he know about it, some o’ the best I ever saw were the only ones with magic in ’em in a long line o’ Muggles — look at yer mum! Look what she had fer a sister!”
“Vậy thì Quidditch là cái gì?”
“So what is Quidditch?”
“Là môn thể thao của chúng ta. Thể thao phù thủy. Nó giống như… giống như bóng đá trong thể thao giới Muggle vậy – mọi người đuổi theo Quidditch, chơi trên không nhé, cưỡi trên cán chổi mà chơi, và có tới bốn trái banh – Chà, cũng khó giải thích luật lệ.”
“It’s our sport. Wizard sport. It’s like — like soccer in the Muggle world — everyone follows Quidditch — played up in the air on broomsticks and there’s four balls — sorta hard ter explain the rules.”
“Còn Slytherin và Hufflepuff là cái gì?”
“And what are Slytherin and Hufflepuff?”
“Ký túc xá, tức nhà trong trường cho học sinh ở trọ. Có bốn ký túc xá hết thảy. Người ta hay nói Hufflepuff chứa toàn đồ học dốt, nhưng…”
“School Houses. There’s four. Everyone says Hufflepuff are a lot o’ duffers, but —”
Harry rầu rĩ:
“Chắc là con sẽ bị cho vô Hufflepuff thôi.”
“I bet I’m in Hufflepuff,” said Harry gloomily.
“Hufflepuff còn đỡ hơn Slytherin. Hồi nào giờ có tên phù thủy ác hóa nào mà không ở lò Slytherin ra đâu? Một thí dụ là Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đấy.”
“Better Hufflepuff than Slytherin,” said Hagrid darkly. “There’s not a single witch or wizard who went bad who wasn’t in Slytherin. You-Know-Who was one.”
“Vol…, xí quên, Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đấy cũng từng học ở Hogwarts sao?”
“Ờ, lâu lắm rồi.”
“Vol-, sorry — You-Know-Who was at Hogwarts?”
“Years an’ years ago,” said Hagrid.
Lão Hagrid mua sách cho Harry trong một tiệm sách tên là Bổ-và-Hại. Ở đó những quyển sách to như tảng đá lát đường bọc da chất cao đụng trần nhà. Lại có sách nhỏ cỡ con tem bọc lụa. Có quyển sách đầy những ký hiệu kỳ cục; có quyển lại không có chữ gì bên trong cả. Đến như Dudley, một thằng bé không bao giờ đọc sách, chắc cũng khoái đưa tay sờ thử vào những quyển sách lạ lùng này. Lão Hagrid phải kéo Harry bứt khỏi những cuốn như Nguyền rủa và phản nguyền (Cứu bạn bè và trừng phạt kẻ thù bằng sự phục thù mới nhất: rụng hết tóc, chân cà vẹo, lưỡi cà giựt, và nhiều nhiều trò hay nữa) của giáo sư Vindictus Viridian.
They bought Harry’s school books in a shop called Flourish and Blotts where the shelves were stacked to the ceiling with books as large as paving stones bound in leather; books the size of postage stamps in covers of silk; books full of peculiar symbols and a few books with nothing in them at all. Even Dudley, who never read anything, would have been wild to get his hands on some of these. Hagrid almost had to drag Harry away from Curses and Counter- curses (Bewitch Your Friends and Befuddle Your Enemies with the Latest Revenges: Hair Loss, Jelly-Legs, Tongue-Tying and Much, Much More) by Professor Vindictus Viridian.
Harry luyến tiếc:
“Con muốn bữa nào thử trừng phạt Dudley.”
“I was trying to find out how to curse Dudley.”
Lão Hagrid gật gù:
“Ta không nói như vậy không hay. Nhưng đừng có giở phép thuật ra trong thế giới Muggle, trừ những trường hợp thật đặc biệt. Với lại, con cũng chưa thể thực hiện được những lời nguyền, con còn phải học tập nhiều mới đạt tới trình độ nguyền rủa người khác.”
“I’m not sayin’ that’s not a good idea, but yer not ter use magic in the Muggle world except in very special circumstances,” said Hagrid. “An’ anyway, yeh couldn’ work any of them curses yet, yeh’ll need a lot more study before yeh get ter that level.”
Lão Hagrid cũng không cho Harry mua một cái vạc bằng vàng (trong danh sách ghi là một cái vạc bằng thiếc), nhưng ông cho phép nó mua một bộ cân rất xinh để cân các nguyên liệu chế biến quỷ dược, và mua cả một cái kính viễn vọng bằng đồng thu gọn được. Rồi họ vô tiệm Apothecary, một nơi đủ nguyên liệu tuyệt vời để tạo ra bất cứ thứ mùi kinh khủng gì, như mùi trứng thúi pha với mùi bắp cải nhũn. Các thùng đựng nguyên vật liệu chất đầy trên sàn; những hũ dược thảo, các thứ rễ khô, và những bao bột sáng để dựa sát tường. Những bó da, những xâu mồi lửa, những móng vuốt co quắp thòng từ trên trần xuống. Trong khi lão Hagrid hỏi người đứng sau quầy về một số nguyên liệu cần thiết cho việc học của Harry, thì tự Harry một mình đi xem xét mấy cái sừng kỳ lân bạc (giá hai mươi mốt Galleons một cái), và những con mắt bọ cam đen nhánh, nhỏ ti tí (năm Knuts một chung).
Hagrid wouldn’t let Harry buy a solid gold cauldron, either (“It says pewter on yer list”), but they got a nice set of scales for weigh- ing potion ingredients and a collapsible brass telescope. Then they visited the Apothecary, which was fascinating enough to make up for its horrible smell, a mixture of bad eggs and rotted cabbages. Barrels of slimy stuff stood on the floor; jars of herbs, dried roots, and bright powders lined the walls; bundles of feathers, strings of fangs, and snarled claws hung from the ceiling. While Hagrid asked the man behind the counter for a supply of some basic po- tion ingredients for Harry, Harry himself examined silver unicorn horns at twenty-one Galleons each and minuscule, glittery-black beetle eyes (five Knuts a scoop).
Ra khỏi tiệm Apothecary, lão Hagrid kiểm lại danh sách đồ cần có của Harry.
Outside the Apothecary, Hagrid checked Harry’s list again.
“Chỉ còn cây đũa phép là chưa mua. À, phải rồi, ta còn chưa cho con một món quà sinh nhật.”
“Just yer wand left — oh yeah, an’ I still haven’t got yeh a birth- day present.”
Harry cảm thấy hai má nó nóng bừng.
“Bác không cần phải…”
Harry felt himself go red.
“You don’t have to —”
“Ta biết ta không cần phải làm vậy. Nhưng mà để coi, ta sẽ tặng con một thứ gì nè? Nhất định không phải cóc rồi, cóc đã hết mốt từ lâu, chúng nó sẽ cười nhạo con cho coi. Ta cũng không thích mèo, chúng làm cho ta sổ mũi hắt xì hơi. Vậy ta sẽ sắm cho con một con cú. Loại này cực kỳ hữu ích, có thể chuyển thư và đủ mọi thứ dùm con.”
“I know I don’t have to. Tell yeh what, I’ll get yer animal. Not a toad, toads went outta fashion years ago, yeh’d be laughed at — an’ I don’ like cats, they make me sneeze. I’ll get yer an owl. All the kids want owls, they’re dead useful, carry yer mail an’ everythin’.”
Hai mươi phút sau, hai bác cháu rời khỏi viện cú Eeylops, một nơi âm u, đầy những tiếng thì thào, những giọng rít nóng, những đôi mắt sáng như ngọc. Harry đã có trong tay chiếc lồng to, bên trong là một con cú trắng như tuyết vô cùng xinh đẹp, đang vùi đầu trong cánh ngủ say sưa. Harry không thể không lặp lại câu cám ơn lão Hagrid, nghe đến gần cà lăm như giáo sư Quirrell.
Twenty minutes later, they left Eeylops Owl Emporium, which had been dark and full of rustling and flickering, jewel-bright eyes. Harry now carried a large cage that held a beautiful snowy owl, fast asleep with her head under her wing. He couldn’t stop stammering his thanks, sounding just like Professor Quirrell.
Lão Hagrid gạt đi một cách thô lỗ:
“Ơn nghĩa gì! Ta chắc con làm gì mà có được nhiều quà cáp khi ở nhà Dursley. Giờ thì ta chỉ cần đến một tiệm nữa thôi, tiệm duy nhất bán đũa phép, tiệm Ollivanders để kiếm cho con cây đũa phép xịn nhất.”
“Don’ mention it,” said Hagrid gruffly. “Don’ expect you’ve had a lotta presents from them Dursleys. Just Ollivanders left now — only place fer wands, Ollivanders, and yeh gotta have the best wand.”
Một cây đũa phép… chính là cái mà Harry nôn nóng muốn có nhất.
A magic wand . . . this was what Harry had been really looking forward to.
Tiệm cuối cùng này nhỏ xíu, vừa hẹp vừa dơ, trên cửa tiệm có đẽo mấy chữ vàng: Ollivanders – nhà sản xuất đũa uy tín từ năm 382. Bên trong cửa sổ bám đầy bụi bặm, có trưng bày một cây đũa duy nhất đặt trên một cái gối tím bạc màu.
The last shop was narrow and shabby. Peeling gold letters over the door read Ollivanders: Makers of Fine Wands since 382 B.C. A single wand lay on a faded purple cushion in the dusty window.
Khi hai bác cháu bước vô trong tiệm thì nghe có tiếng chuông leng keng vang lên đâu đó ở sâu dưới sàn tiệm. Chỗ này thật là chật chội, nhưng trống trơn, ngoại trừ một chiếc ghế đu đưa duy nhất để cho Harry ngồi chờ. Nó cảm thấy lạ lùng như thể nó vừa bước vào một thư viện rất ư nghiêm ngặt. Nó phải ráng nuốt vô rất nhiều câu hỏi chỉ chựt vọt ra khỏi miệng, giương mắt ngó hàng ngàn cái hộp nhỏ và dài chất khít rịt lên tới trần. Không biết tại sao bỗng dưng Harry cảm thấy như cổ mình bị kim chích. Cái vẻ bụi bặm và lặng lẽ nơi đây dường như gây một cảm giác kiến bò trong xương người ta bằng một thứ phù phép bí ẩn gì đó.
A tinkling bell rang somewhere in the depths of the shop as they stepped inside. It was a tiny place, empty except for a single, spindly chair that Hagrid sat on to wait. Harry felt strangely as though he had entered a very strict library; he swallowed a lot of new questions that had just occurred to him and looked instead at the thousands of narrow boxes piled neatly right up to the ceiling.
For some reason, the back of his neck prickled. The very dust and silence in here seemed to tingle with some secret magic.
Chợt một giọng nói dịu dàng vang lên:
“Chào cháu.”
“Good afternoon,” said a soft voice.
Harry đứng phắt dậy. Lão Hagrid chắc là càng nhảy dựng lên vì nghe tiếng xô cái ghế của lão.
Harry jumped. Hagrid must have jumped, too, because there was a loud crunching noise and he got quickly off the spindly chair.
Một cụ già đứng trước mặt hai bác cháu, đôi mắt cụ to và sáng như ánh trăng chiếu xuyên vẻ âm u của cửa tiệm. Harry lúng túng nói:
“Cháu chào cụ ạ.”
An old man was standing before them, his wide, pale eyes shin- ing like moons through the gloom of the shop.
“Hello,” said Harry awkwardly.
Cụ già nói:
“À, phải, phải, phải rồi. Ta đã nghĩ là ta sẽ sớm gặp lại cháu. Harry Potter. Cháu có đôi mắt của mẹ cháu. Ta tưởng như chỉ mới ngày hôm qua khi ta gặp chính mẹ cháu trong tiệm này, mua đũa phép đầu tiên của mình. Để coi, cây đũa đó bằng gỗ cây liễu, dài ba tấc, thanh nhã. Một cây đũa đẹp thích hợp cho việc luyện bùa.”
“Ah yes,” said the man. “Yes, yes. I thought I’d be seeing you soon. Harry Potter.” It wasn’t a question. “You have your mother’s eyes. It seems only yesterday she was in here herself, buying her first wand. Ten and a quarter inches long, swishy, made of willow. Nice wand for charm work.”
Cụ Ollivanders tiến đến gần Harry hơn. Harry chỉ mong cho cụ chớp mắt. Đôi mắt bạc màu ánh trăng đó làm cho nó sởn tóc gáy.
Mr. Ollivander moved closer to Harry. Harry wished he would blink. Those silvery eyes were a bit creepy.
“Ba của cháu, ngược lại, thích một cây đũa phép bằng gỗ cây sao. Dài ba tấc mốt. Uốn dẻo được. Nhiều quyền lực hơn và xuất sắc hơn về khả năng biến hóa. Ừ, ta thấy ba của cháu xứng đáng với cây đũa phép đó. Thực ra thì chính cây đũa phép chọn phù thủy, chứ không phải phù thủy chọn đũa phép, đúng vậy.”
“Your father, on the other hand, favored a mahogany wand. Eleven inches. Pliable. A little more power and excellent for trans- figuration. Well, I say your father favored it — it’s really the wand that chooses the wizard, of course.”
Ông Ollivanders đã đến gần sát Harry đến nỗi mũi cụ và mũi Harry suýt đụng nhau. Harry có thể nhìn thấy bóng mình phản chiếu trong mắt cụ.
“Và đây là chỗ…”
Mr. Ollivander had come so close that he and Harry were almost nose to nose. Harry could see himself reflected in those misty eyes.
“And that’s where . . .”
Ông Ollivanders đưa ngón tay trắng bệch dài thòng sờ vào vết sẹo hình tia chớp trên trán Harry. Ông nói nhẹ nhàng:
“Ta rất tiếc là chính ta đã bán ra cây đũa thủ phạm của vết sẹo này. Bốn tấc mốt. Chà, cây đũa phép này rất, rất, rất nhiều quyền phép; rất quyền phép, mà lại ở trong tay một kẻ ác… A, giá như ta biết cây đũa phép ấy ra đời để làm những chuyện…”
Mr. Ollivander touched the lightning scar on Harry’s forehead with a long, white finger.
“I’m sorry to say I sold the wand that did it,” he said softly. “Thirteen-and-a-half inches. Yew. Powerful wand, very powerful, and in the wrong hands . . . well, if I’d known what that wand was going out into the world to do. ”
Cụ lắc đầu, và rồi, may cho Harry, cụ quay sang lão Hagrid.
“Chào Rubeus Hagrid. Thật vui khi gặp lại anh… đũa của anh làm bằng gỗ sồi, dài năm tấc, hơi cong, phải không?”
He shook his head and then, to Harry’s relief, spotted Hagrid.
“Rubeus! Rubeus Hagrid! How nice to see you again. . . . Oak, sixteen inches, rather bendy, wasn’t it?”
“Đúng đó thưa cụ.”
“It was, sir, yes,” said Hagrid.
“Cây đũa đó tốt lắm. Nhưng họ đã bẻ gãy vụn cây đũa của anh khi anh bị đuổi phải không?”
Giọng cụ Ollivanders bỗng nhiên đanh lại.
“Good wand, that one. But I suppose they snapped it in half when you got expelled?” said Mr. Ollivander, suddenly stern.
Lão Hagrid bối rối:
“Ơ… phải, họ đã làm như vậy. Nhưng mà tôi vẫn còn giữ những khúc gãy.”
“Er — yes, they did, yes,” said Hagrid, shuffling his feet. “I’ve still got the pieces, though,” he added brightly.
Cụ Ollivanders vẫn lạnh lùng:
“Nhưng anh không sử dụng chúng?”
“But you don’t use them?” said Mr. Ollivander sharply.
Lão Hagrid vội nói ngay:
“Không đâu thưa cụ.”
Harry để ý thấy lão Hagrid ép chặt cây dù bên trong cái áo khoác đen dày khi phân bua với cụ Ollivanders.
“Oh, no, sir,” said Hagrid quickly. Harry noticed he gripped his pink umbrella very tightly as he spoke.
Cụ ném cho lão Hagrid một cái nhìn dữ tợn:
“Hừm, thôi được, bây giờ để ta xem, cây đũa nào thích hợp với cậu Potter.”
“Hmmm,” said Mr. Ollivander, giving Hagrid a piercing look. “Well, now — Mr. Potter. Let me see.”
Cụ lấy từ trong túi ra một cuộn thước dây có dấu khắc bạc.
“Tay nào của cậu cầm đũa?”
He pulled a long tape mea- sure with silver markings out of his pocket. “Which is your wand arm?”
“Ơ… cháu thuận tay mặt ạ.”
“Er — well, I’m right-handed,” said Harry.
“Giơ tay lên. Vậy đó.”
Cụ đo từ vai đến ngón tay của Harry, rồi đo từ cổ tay đến cùi chỏ, từ vai đến sàn, từ tay đến đầu gối, và vòng quanh đầu.
“Hold out your arm. That’s it.” He measured Harry from shoul- der to finger, then wrist to elbow, shoulder to floor, knee to armpit and round his head.
Trong lúc đó cụ nói:
“Mỗi cây đũa phép của hiệu Ollivanders đều có lõi bằng chất liệu pháp thuật hùng mạnh, cậu Potter à. Chúng tôi dùng lông đầu bạch kỳ mã, lông đuôi phượng hoàng, và gân rồng. Không có cây đũa Ollivanders nào giống cây đũa Ollivanders nào, bởi vì không hề có hai con bạch kỳ mã, hai con phượng, hay hai con rồng nào giống y như nhau. Và dĩ nhiên, cậu không thể nào tạo được quyền phép tương tự khi sử dụng cây đũa của phù thủy khác.”
As he measured, he said, “Every Ollivander wand has a core of a powerful magical substance, Mr. Potter. We use unicorn hairs, phoenix tail feathers, and the heartstrings of dragons. No two Ollivander wands are the same, just as no two unicorns, dragons, or phoenixes are quite the same. And of course, you will never get such good results with another wizard’s wand.”
Harry bỗng nhận ra cái thước đo, đang đo khoảng cách hai lỗ mũi của nó, tự động làm công việc một mình. Cụ Ollivanders đã bỏ đi tới chỗ mấy cái kệ, lấy xuống vài cái hộp.
Harry suddenly realized that the tape measure, which was measuring between his nostrils, was doing this on its own. Mr. Ollivander was flitting around the shelves, taking down boxes.
Khi cụ nói:
“Xong rồi.”
Thì cái thước đo tự động buông mình rớt xuống sàn.
“Được rồi, cậu Potter, thử cái này xem. Gỗ sồi và gân rồng. Hai tấc rưỡi, xinh đẹp và linh hoạt. Cứ cầm nó lên vẫy một cái.”
“That will do,” he said, and the tape measure crumpled into a heap on the floor. “Right then, Mr. Potter. Try this one. Beechwood and dragon heartstring. Nine inches. Nice and flexible. Just take it and give it a wave.”
Harry cầm cây đũa và (cảm thấy mình ngu ngốc) quơ một vòng nhỏ. Nhưng cụ Ollivanders giật lại cây đũa ngay tức thì.
Harry took the wand and (feeling foolish) waved it around a bit, but Mr. Ollivander snatched it out of his hand almost at once.
“Thử cây này. Gỗ thích và lông phượng. Hai tấc ba. Khá lợi hại.”
Harry thử, nhưng nó chưa kịp giơ cây đũa lên thì lại bị cụ Ollivanders tước mất.
“Maple and phoenix feather. Seven inches. Quite whippy.
Try —”
Harry tried — but he had hardly raised the wand when it, too, was snatched back by Mr. Ollivander.
“Không, không. Thử cây này. Gỗ mun và lông kỳ lân. Hai tấc tám.”
“No, no — here, ebony and unicorn hair, eight and a half inches, springy. Go on, go on, try it out.”
Harry thử. Rồi thử. Nó chẳng hiểu cụ Ollivanders có ý chờ đợi phép màu gì. Đống đũa nó đã thử vun thành đống trên chiếc ghế đu đưa, nhưng cụ Ollivanders vẫn cứ đưa ra thêm nhiều cây đũa khác để thử. Mà càng thử cụ có vẻ càng vui hơn.
Harry tried. And tried. He had no idea what Mr. Ollivander was waiting for. The pile of tried wands was mounting higher and higher on the spindly chair, but the more wands Mr. Ollivander pulled from the shelves, the happier he seemed to become.
“Tưởng ta bịp hả? Đừng lo. Chúng ta đang tìm một cây phối hợp hoàn hảo nằm đâu đây trong đám đũa này. Ta đang tự hỏi, à phải, sao lại không thử một sự kết hợp khác thường. Cây nhựa ruồi và lông phượng. Hai tấc chín. Đẹp và dễ uốn nắn.”
“Tricky customer, eh? Not to worry, we’ll find the perfect match here somewhere — I wonder, now — yes, why not — unusual combination — holly and phoenix feather, eleven inches, nice and supple.”
Harry cầm cây đũa. Nó thình lình cảm nhận một luồng hơi ấm truyền vào đầu ngón tay. Nó giơ cây đũa phép lên cao trên đầu, ngoắc một cái giữa đám bụi lưu niên trong tiệm. Một chuỗi những tia lấp lánh vàng đỏ bắn ra từ đầu đũa y như pháo bông, tạo thành những điểm sáng nhảy múa trên tường. Lão Hagrid vỗ tay hò reo, còn cụ Ollivanders thì bật khóc:
“Ôi, hoan hô. Đúng rồi, ôi, hay quá. Ừ. Tốt. Tốt. Thật là kỳ lạ… Ôi kỳ lạ biết bao…”
Harry took the wand. He felt a sudden warmth in his fingers. He raised the wand above his head, brought it swishing down through the dusty air and a stream of red and gold sparks shot from the end like a firework, throwing dancing spots of light on to the walls. Hagrid whooped and clapped and Mr. Ollivander cried, “Oh, bravo! Yes, indeed, oh, very good. Well, well, well . . . how curious . . . how very curious . . .”
Cụ đặt cây đũa của Harry trở vào cái hộp, gói trong một tờ giấy nâu, vẫn lẩm nhẩm:
“Kỳ lạ… Kỳ lạ…”
He put Harry’s wand back into its box and wrapped it in brown paper, still muttering, “Curious . . . curious . . .”
Harry hỏi:
“Cháu xin lỗi, nhưng mà cái gì kỳ lạ ạ?”
“Sorry,” said Harry, “but what’s curious?”
Cụ Ollivanders nhìn chằm chặp vào mặt Harry:
“Ta nhớ mọi cây đũa của ta bán ra, cậu Potter à. Từng cây đũa một. Ngẫu nhiên làm sao là con phượng hoàng đã cho cái lông làm thành cây đũa của cháu cũng cho thêm một chiếc lông – và chỉ một chiếc. Rất kỳ lạ, nhưng đúng là chiếc lông phượng trong cây đũa của cháu, chính là anh em của chiếc lông làm nên cây đũa đã để thẹo trên trán cháu.”
Mr. Ollivander fixed Harry with his pale stare.
“I remember every wand I’ve ever sold, Mr. Potter. Every single wand. It so happens that the phoenix whose tail feather is in your wand, gave another feather — just one other. It is very curious in- deed that you should be destined for this wand when its brother — why, its brother gave you that scar.”
Harry há hốc miệng, trợn tròn mắt.
“Chuyện đời kỳ lạ làm sao. Nên nhớ, đũa phép chọn phù thủy. Ta tin là chúng ta có thể trông mong nơi cháu những điều vĩ đại, Potter à… Nói cho cùng, Người-mà-chớ-gọi-tên-ra quả đã làm những điều vĩ đại. Khủng khiếp thật nhưng cũng vĩ đại.”
Harry swallowed.
“Yes, thirteen-and-a-half inches. Yew. Curious indeed how these things happen. The wand chooses the wizard, remember. . . . I think we must expect great things from you, Mr. Potter. . . . After all, He-Who-Must-Not-Be-Named did great things — terrible, yes, but great.”
Harry rùng mình. Nó không chắc là nó thích cụ Ollivanders lắm. Nó trả cụ bảy đồng Galleons vàng để mua cây đũa, và cụ Ollivanders cúi chào tiễn hai bác cháu ra tận cửa.
Harry shivered. He wasn’t sure he liked Mr. Ollivander too much. He paid seven gold Galleons for his wand, and Mr. Olli- vander bowed them from his shop.
Xế chiều, mặt trời đã lơ lửng phía chân trời khi Harry và lão Hagrid quay trở lại Hẻm Xéo, xuyên qua bức tường, trở lại quán rượu Cái Vạc Lủng, lúc ấy đã vắng hoe. Harry không nói gì cả khi cả hai đi xuống phố. Nó cũng không để ý người ta ngó ngoái hai bác cháu nó như thế nào khi cả hai người xuống ga xe điện ngầm, tay xách, nách mang, lưng vác những hộp những gói hình thù khôi hài, lại có một con cú trắng như tuyết ngủ vùi trong chiếc lồng mà Harry ôm trong lòng.
The late afternoon sun hung low in the sky as Harry and Hagrid made their way back down Diagon Alley, back through the wall, back through the Leaky Cauldron, now empty. Harry didn’t speak at all as they walked down the road; he didn’t even notice how much people were gawking at them on the Underground, laden as they were with all their funny-shaped packages, with the snowy owl asleep in its cage on Harry’s lap.
Đến sân ga, khi lão Hagrid vỗ vai Harry, nó mới nhận ra mình đang ở đâu.
Up another escalator, out into Paddington station; Harry only realized where they were when Ha- grid tapped him on the shoulder.
Lão Hagrid nói:
“Còn đủ thì giờ để ăn cái gì đó trước khi chuyến tàu của con chạy.”
“Got time fer a bite to eat before yer train leaves,” he said.
Lão mua cho Harry một cái bánh mì nhân thịt và cả hai ngồi trên ghế đợi mà ăn. Harry cứ nhìn quanh. Mọi thứ trông là lạ làm sao đó.
He bought Harry a hamburger and they sat down on plastic seats to eat them. Harry kept looking around. Everything looked so strange, somehow.
Lão Hagrid hỏi:
“Con có sao không, Harry? Sao bỗng nhiên con im lặng?”
“You all right, Harry? Yer very quiet,” said Hagrid.
Harry không chắc là nó có thể giải thích được. Nó đang trải qua một sinh nhật tuyệt vời nhất từ trước đến giờ. Nó vừa nhai bánh mì thịt băm vừa kiếm vài lời để nói.
Harry wasn’t sure he could explain. He’d just had the best birth- day of his life — and yet — he chewed his hamburger, trying to find the words.
Cuối cùng nó cũng kiếm ra mấy câu:
“Ai cũng nghĩ là con đặc biệt, tất cả những người ở tiệm Cái Vạc Lủng, giáo sư Quirrell, cụ Ollivanders… nhưng mà thực tình con không biết chút pháp thuật nào cả. Sao họ lại trông mong điều vĩ đại nơi con? Con nổi tiếng mà con không thể nhớ mình nổi tiếng nhờ cái gì. Con không biết điều gì đã xảy ra khi Vol…, xí quên, con muốn nói là vào cái đêm ba má con bị hại đó…”
“Everyone thinks I’m special,” he said at last. “All those people in the Leaky Cauldron, Professor Quirrell, Mr. Ollivander . . . but I don’t know anything about magic at all. How can they expect great things? I’m famous and I can’t even remember what I’m famous for. I don’t know what happened when Vol-, sorry — I mean, the night my parents died.”
Lão Hagrid chồm qua bàn, đưa cái mặt rậm rì râu tóc của lão đến gần mặt Harry, và sau râu tóc ấy là một nụ cười hiền lành tử tế:
Hagrid leaned across the table. Behind the wild beard and eye- brows he wore a very kind smile.
“Đừng lo lắng, con ơi. Con sẽ học hành tấn tới mau lắm. Ai cũng bắt đầu từ chỗ bắt đầu ở Hogwarts. Con sẽ vượt qua được hết, không sao đâu. Ta biết là sẽ khó khăn vất vả. Con sẽ phải một mình phấn đấu vươn lên, không dễ dàng gì. Nhưng con sẽ trải qua một quãng đời tuyệt vời ở Hogwarts. Ta đã từng trải qua… Mà thực tế là ta vẫn đang trải qua đời ta ở đó.”
“Don’ you worry, Harry. You’ll learn fast enough. Everyone starts at the beginning at Hogwarts, you’ll be just fine. Just be yer- self. I know it’s hard. Yeh’ve been singled out, an’ that’s always hard. But yeh’ll have a great time at Hogwarts — I did — still do, ’smat- ter of fact.”
Lão Hagrid giúp Harry lên chuyến tàu điện ngầm sẽ đưa nó về lại ngôi nhà dì dượng Dursley. Lão đưa nó một lá thư.
Hagrid helped Harry on to the train that would take him back to the Dursleys, then handed him an envelope.
“Đây là vé của con để đi Hogwarts. Ngày một tháng chín. Ngã Tư Vua. Trong vé có ghi rõ. Nếu gặp rắc rối gì với gia đình Dursley thì gởi cú cho ta. Con cú đó biết tìm ta ở đâu. Hẹn gặp lại con nhé, Harry.”
“Yer ticket fer Hogwarts,” he said. “First o’ September — King’s Cross — it’s all on yer ticket. Any problems with the Dursleys, send me a letter with yer owl, she’ll know where to find me. See yeh soon, Harry.”
Chuyến tàu điện ngầm chuyển bánh ra khỏi ga. Harry muốn được nhìn lão Hagrid cho đến khi lão khuất hẳn tầm nhìn. Nó đứng ịn mũi vào cửa sổ toa tàu nhìn lại, nhưng chỉ chớp mắt một cái là lão Hagrid đã biến mất rồi.
The train pulled out of the station. Harry wanted to watch Ha- grid until he was out of sight; he rose in his seat and pressed his nose against the window, but he blinked and Hagrid had gone.
🙏 Loving the content – Support me with a Coffee or a Cupcake
Paypal: https://www.paypal.com/paypalme/comicqueen?country.x=VN&locale.x=en_US